Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Sơ đồ tư duy) 2 Dàn ý & 8 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 8 bài Cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về những con người lao động âm thầm, lặng lẽ xây dựng quê hương, đất nước.
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long đã tái hiện một cách đầy đủ những vẻ đẹp của con người, có năng lực trình độ, nhiệt huyết và tràn đầy sức sống trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Bài văn cảm nhận Lặng lẽ Sa pa của Nguyễn Thành Long
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa
- Dàn ý cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa (2 mẫu)
- Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa (6 mẫu)
- Cảm nhận những âm vang từ truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
- Cảm nhận chất thơ trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
Sơ đồ tư duy Cảm nhận Lặng lẽ Sa Pa
Dàn ý cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa
1. Mở bài:
- Giới thiệu về Nguyễn Thành Long và truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa.
2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh sáng tác và nội dung:
- Viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế Lào Cai của tác giả.
- Truyện kể về cuộc gặp gỡ của anh thanh niên làm công tác khí tượng và ông hoạ sĩ già cũng cô kĩ sư trẻ.
b. Vẻ đẹp của thiên nhiên:
- Bức tranh thiên nhiên Sa Pa đẹp thơ mộng, hiện lên qua con mắt của ông hoạ sĩ với “nắng bắt đầu lên tới”, “những cây thông chỉ cao đầu người”, “mây cuộn tròn, lăn cả xuống gầm xe”.
- Vẻ đẹp hoang sơ, mang nét độc đáo riêng của Sa Pa.
c. Vẻ đẹp của con người
Anh thanh niên: mới 27 tuổi, làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét:
- Anh là một con người có tinh thần trách nhiệm với công việc và luôn hết mình vì công việc.
- Vì công việc nên anh phải sống một mình ở trên đỉnh núi cao “bốn bề chỉ có cây cỏ”
- Luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình: góp phần phát hiện “đám mây khô” giúp không quân ta hạ máy bay Mỹ.
- Lạc quan, yêu đời: anh tự tạo cho mình những thú vui nhỏ như trồng hoa, đọc sách, nuôi gà, …
- Sống ngăn nắp, gọn gàng.
- Anh thanh niên là một người cởi mở, chân thành và hiếu khách.
- Anh còn là một người rất khiêm tốn: Khi ông hoạ sĩ muốn vẽ anh, anh đã đề nghị giới thiệu người khác vì cảm thấy họ xứng đáng hơn.
– Nhân vật người hoạ sĩ:
- Là một người hoạ sĩ tâm huyết với nghề, người nghệ sĩ chân chính.
- Cả đời tìm kiếm cái đẹp, khao khát truyền tải “tấm lòng của người hoạ sĩ” vào sáng tác của mình.
- Khi bắt gặp anh thanh niên, ông biết đó là cơ hội, thử thách của mình.
– Cô kĩ sư trẻ:
- Vừa mới đỗ kĩ sư, đi nhận việc ở Ti nông nghiệp Lai Châu.
- Băn khoăn về cuộc đời, chưa tìm được hướng đi cho mình.
- Sau khi gặp anh thanh niên, cô thấy mình “bàng hoàng”: hiểu về cuộc sống, thế giới của anh thanh niên, cũng như “con đường cô đang đi tới”.
– Bác lái xe:
- Là một người yêu nghề, đã sống với nghề được “ba mươi hai năm”, từ “trước cách mạng tháng Tám”.
- Là một con người chân thành, cởi mở, cầu nối của người thanh niên tới mọi người.
d. Nghệ thuật
- Câu chuyện được làm nên bởi chất trữ tình, sâu lắng.
- Ngôn từ bình dị, nhẹ nhàng, dung dị như chính những con người trong tác phẩm.
3. Kết bài:
- Câu chuyện là lời ngợi ca những con người lao động thầm lặng.
….
Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa
Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa – Mẫu 1
Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và bút ký. Các tác phẩm của ông luôn mang một hình tượng đẹp với ngôn từ trong sáng, giọng văn gần gũi, trong trẻo và nhẹ nhàng. Ông để lại nhiều tác phẩm văn xuôi như Giữa trong xanh (1972), Ta và chúng nó (1950), Bát cơm cụ Hồ (1952), … nhưng nổi tiếng nhất phải kể đến tác phẩm Lặng lẽ Sa pa (1970).
Lặng lẽ Sa Pa là tác phẩm được đúc kết từ chuyến đi thực tế tại Lào Cai của nhà văn vào năm 1970. Đó là câu chuyện về cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và thú vị của một ông họa sĩ già, một cô kĩ sư trẻ và một anh thanh niên mới 27 tuổi đang làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn, Lào Cai. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng lại khiến những con người ấy thấu hiểu nhau, hiểu được vẻ đẹp của nhau và thêm trân trọng nhau. Truyện ngắn cũng là lời ca ngợi vẻ đẹp của những con người đang cống hiến hết mình cho Tổ quốc trong thầm lặng.
Đến với Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long đã đem tới cho người đọc không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên của Sa Pa mà còn là vẻ đẹp của những con người lao động bình dị trong những năm tháng cùng nhau xây dựng Tổ quốc Việt Nam.
Điều đầu tiên ta cảm nhận được ở tác phẩm là bức tranh phong cảnh thiên nhiên của Sa Pa. Đó là bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp rất đỗi thơ mộng và dịu dàng. Bức tranh thiên nhiên hiện qua con mắt của nhà hoạ sĩ và cô kĩ sư với nắng, với những cây thông, với những đám mây “cuộn tròn”, một vẻ đẹp khiến người ta phải “nín bặt”: “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kính thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe”. Thiên nhiên ở Sa Pa đẹp quá, “đẹp một cách kì lạ” bởi thiên nhiên ở đó vẫn còn hoang sơ và mang những nét đặc trưng, độc đáo riêng của mảnh đất này.
Thiên nhiên ở Sa Pa đẹp là vậy, nhưng những con người ở nơi đây lại càng “đẹp” hơn, rực rỡ hơn! Như người thanh niên trẻ làm “công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu” ở đỉnh Yên Sơn này! Mới chỉ hai mươi bảy tuổi nhưng anh đã sống một mình ở trên đỉnh núi cao 2600 mét này được bốn năm. Quanh năm, anh chỉ làm bạn với những cây cối, núi non tuyết phủ. Sự tĩnh lặng và cô đơn ấy có thể khiến con người ta phải chùn bước, thoái thác công việc của mình, như người hoạ sĩ già đã nói: “Buồn thì ai mà chả sợ? Nó như con gián gặm nhấm người ta? Tốt hơn là tránh nó để làm việc đời”. Thế nhưng người thanh niên ấy vẫn luôn một lòng vì công việc của mình bất chấp cả khó khăn, thử thách, cả nỗi cô đơn “thèm người” tới cùng cực!
Ở anh thanh niên, người ta có thể nhận thấy ngay anh là một con người yêu nghề, luôn hết mình vì công việc. Nếu không tại sao một người con trai chỉ mới 27 tuổi lại chấp nhận nhận công tác tại một nơi “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, không một người làm bạn cùng? Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày”. Đó là một công việc đòi hỏi sự chính xác cao trong khi thực hiện, đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm lớn với những khung giờ “ốp” bất thường. Có khi là “một giờ sáng”, người thanh niên ấy phải dậy trong cái “rét” tê tái của đỉnh Yên Sơn để thực hiện nhiệm vụ của mình. Thời tiết khắc nghiệt đến độ “Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy”. Nếu không phải là một con người hết lòng vì công việc, yêu nghề, say mê nghề thì chỉ cần như thế thôi cũng khiến người ta phải chán nản tới mức tuyệt vọng rồi!
Thế nhưng, người thanh niên trẻ ấy trong bốn năm làm việc chưa từng một lần quên đi công việc của mình vì sự cô đơn. Bởi anh luôn định nghĩa trong lòng rằng “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?”. Với anh, công việc là một người bạn, là một người đồng hành với anh trong cuộc sống thường ngày. Vậy nên, anh không cô đơn, chưa từng cô đơn khi phải làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao vời vợi này. Hơn thế, chàng thanh niên trẻ còn hiểu được ý nghĩa của công việc của mình, anh nói: “Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Chính vì thế mà người ta luôn thấy anh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Những giờ “ốp” luôn được anh thực hiện chính xác và nghiêm chỉnh. Và hơn thế, có một lần anh đã “góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”. Điều đó đã khiến anh “bất ngờ” và “sống thật hạnh phúc”, bởi công việc của anh đã góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mình.
Ở người thanh niên đó, ta còn thấy một tình yêu cuộc sống luôn tràn trề và sự lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Sống một mình trên núi cao, nhưng anh biết tự tạo cho mình những niềm vui nho nhỏ như trồng hoa, nuôi gà, đọc sách, … Bước tới nơi làm việc của anh, người hoạ sĩ và cô kĩ sư trẻ đã phải trầm trồ trước vườn hoa rực rỡ như cầu vồng của anh. Và thêm đó, người thanh niên cũng không ngừng bồi đắp cho mình những tri thức và tâm hồn bằng việc đọc sách. Với anh, đọc sách cũng như được trò chuyện với con người, được thấu hiểu “lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ.”. Luôn mang trong mình một tinh thần lạc quan, vui vẻ, anh biết sắp xếp cuộc sống của mình ngăn nắp và gọn gàng “Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách.”. Tất cả con người anh thu gọn lại trong cái không gian ấy, nó giản dị, trong ngần như chính người thanh niên trẻ đó vậy!
Người thanh niên trẻ 27 tuổi ấy còn khiến người ta phải mến thương vì sự chân thanh, hiếu khách, cởi mở của mình. Anh gửi biếu bác lái xe “củ tam thất mới đào thấy” vì “hôm nọ bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy”. Ở trên trạm khí tượng, làm bạn cùng công việc nên anh luôn có cảm giác “thèm người”, “thèm” được trò chuyện. Chính vì thế, khi được gặp ông hoạ sĩ và cô kĩ sư, được giới thiệu lên nhà, anh đã “đỏ mặt” và “luống cuống”. Bởi anh vui quá, vui đến nỗi không thể làm chủ được cảm xúc của mình “chạy vụt đi”, “tất tả” trở về nhà hái hoa tặng khách, pha trà mời họ. Anh còn hào phóng tặng cho cô kĩ sư cả vườn hoa của mình “cô muốn lấy bao nhiêu nữa, tuỳ ý”. Đến khi người hoạ sĩ và cô kĩ sư ra về, anh còn tặng họ “cái làn” với “bao nhiêu là trứng”.
Và khi người hoạ sĩ già muốn vẽ tặng anh một bức hoạ, người thanh niên ấy lúng túng và khiêm tốn cho rằng “những người khác đáng vẽ hơn”. Anh cho rằng công việc của mình chỉ là một phần nhỏ nhoi, không xứng đáng so sánh với những người con người lao động khác như ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sapa hay anh kỹ sư vẽ bản đồ sét, …Người thanh niên trẻ hiện lên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa là một con người mang những phẩm chất đáng mến, vừa cởi mở, chân thành, khiêm tốn lại hết lòng vì công việc của mình mà không hề quản ngại khó khăn.
Bên cạnh hình tượng người thanh niên, Nguyễn Thành Long còn khắc hoạ tỉ mỉ hình ảnh của người hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ.
Ông hoạ sĩ già, qua lời của bác lái xe là một người “hoạ sĩ lão thành”. Ông say mê với công việc của mình, không ngần ngại đi tìm cái đẹp, kể cả khi đã về già. Ông cũng luôn trăn trở với những suy tư của một người nghệ sĩ chân chính “Làm một bức chân dung, phác họa như ông làm đây, hay rồi vẽ dầu, làm thế nào làm hiện lên được mẫu người ấy? Cho người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt được chính tấm lòng của nhà họa sĩ vào giữa bức tranh đó?”. Và khi bắt gặp chàng thanh niên trẻ trên Yên Sơn này, ông lại càng băn khoăn hơn nữa về công việc của mình làm sao để “đặt được chính tấm lòng của nhà hoạ sĩ” vào bức tranh, để người xem hiểu cái đẹp mà ông muốn truyền tải. Đó là sự thử thách và ông – người hoạ sĩ già “chấp nhận sự thử thách”.
Còn về cô kĩ sư, cô là hiện thân của tuổi trẻ, của sức sống mãnh liệt. Cô chỉ vừa mới đỗ kĩ sư và tự nguyện “đi nhận việc ở Ti Nông nghiệp Lai Châu”. Trước khi gặp người thanh niên ấy, cô gái còn băn khoăn nhìn đời, cô chưa hiểu được hướng đi của mình trong cuộc sống này. Đến khi gặp được người thanh niên ấy, cô mới “bàng hoàng” và nhận ra rằng cô đã “hiểu thêm về cuộc đời”, về “thế giới của những con người như anh và về con đường cô đang đi tới”. Chính anh đã giúp cô có thêm niềm tin vào sự lựa chọn của mình, thêm tin vào con đường mình chọn.
Cuối cùng là hình ảnh của bác lái xe. Bác là hiện thân của một người lao động yêu nghề, có trách nhiệm cao trong công việc. Chẳng thế mà bác đã lái xe suốt trên con đường này “ba mươi hai năm”, từ khi trước Cách mạng tháng Tám. Không chỉ vậy, bác lái xe còn là một con người cởi mở, là cầu nối của người thanh niên trẻ với mọi người, với cuộc đời.
Ở Lặng lẽ Sa Pa, người ta không thấy được sự kịch tính, cao trào như trong những truyện ngắn khác. Nét đặc sắc ở trong tác phẩm là chất trữ tình trong sáng được gợi lên từ cảnh sắc thiên nhiên của núi rừng Sa Pa cũng như vẻ đẹp của những con người nơi đây. Với ngôn từ rất bình dị, nhẹ nhàng, gần gũi, Nguyễn Thành Long đã mang tới cho chúng ta câu chuyện về cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ giữa ba con người. Cuộc gặp gỡ tưởng chừng như quen thân đã lâu ấy để lại trong chúng ta những dư vị khó quên.
Câu chuyện Lặng lẽ Sa Pa viết về những con người bình thường, họ không có tên riêng, chỉ là những danh từ phiếm chỉ: anh thanh niên, cô kĩ sư, ông hoạ sĩ, … nhưng đã góp phần ngợi ca một cách đầy đủ nhất cuộc sống của những con người thầm lặng đang cùng nhau góp công xây dựng đất nước.
Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa – Mẫu 2
Nguyễn Thành Long là một cây bút truyện ngắn nhưng vẻ đẹp nghệ thuật không nằm ở những phát hiện sắc sảo – táo bạo xung đột mạnh mẽ mà nghiêng về tạo dựng chất thơ nhẹ nhàng trong trẻo lặng thầm, kín đáo nhưng vẫn có sức ngân vang sâu rộng lâu bền. Lặng lẽ Sa Pa tiêu biểu cho phong cách dó của Nguyễn Thành Long. Truyện ra đời sau một chuyến đi thực tế kiểm nghiệm. Nguyễn Thành Long đã giới thiệu với chúng ta một vùng đất lặng thầm nhưng ở đó vẫn có những con người đang ngày đêm làm việc cống hiến quên mình cho quê hương đất nước.
“Lặng lẽ Sa Pa” khi mới đọc cái tên ta có cảm giác Nguyễn Thành Long đang viết về một nơi yên ắng, lạnh giá, hiu hắt hoặc nghĩ về một vùng đất nghỉ ngơi tham quan du lịch Sapa nhiều hơn. Nhưng điều kì diệu và bất ngờ là trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang lên những nhịp sống sôi động trong sáng, tuổi trẻ, vẫn lung linh những sắc màu và lan toả ấm áp lòng người. Nơi ấy đang bừng dậy sức sống của những con người, những tấm lòng đang sống, cống hiến làm việc âm thầm lặng lẽ cho quê hương đất nước. Đó là những con người sống đẹp, có ích cho đời, có lý tưởng ước mơ, niềm tin yêu vững bền vào nghề nghiệp, kiến thức, trình độ, khoa học mà nhân vật anh thanh niên là hiện thân vẻ đẹp đó.
Nhân vật anh thanh niên, ở tuổi đời hai mươi bảy vừa rời phồn hoa, đô thị đông đúc, anh lên công tác ở đỉnh núi Yên Sơn (Sa Pa) ở độ cao hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm mây mù tuyết phủ, suốt ngày làm bạn với núi đá rừng cây. Cái yên ắng, yên lặng tĩnh mịch đến ghê sợ để khiến cho người ta thoái thác nhiệm vụ rời bỏ vị trí nhưng theo tiếng gọi nghề nghiệp và tình yêu cuộc sống, công việc, anh đã tự nguyện gắn bó mình với nghề nghiệp khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Công việc là như vậy nhưng điều kiện làm việc là ngoài trời, kỹ thuật máy móc lại thiếu thốn đơn giản, thô sơ. Cả ngày nắng cũng như ngày mưa hay lúc giá rét lạnh buốt xương, anh vẫn phải lên “ốp” đúng giờ, ghi chép đầy đủ chính xác để bảo vệ cơ quan cấp bộ.
Thế nhưng tất cả những sự vất vả, khó nhọc, thiếu thốn với anh nào có kể gì, thấm tháp gì đâu so với sự lạnh lẽo buồn cô đơn đến “thèm người”. Ở chốn rừng sâu hoang vu vắng lặng, anh chỉ biết làm bạn với chim kêu vượn hót. Xuất phát từ lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm tự giác, ý thức được nhiệm vụ của tuổi trẻ: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Ở anh còn có một tấm lòng nhiệt tình say mê nghề nghiệp, nghiên cứu, sáng tạo và luôn tìm thấy niềm vui từ công việc. Anh từng tâm sự: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi”.
Ngoài là người có học thức, có trình độ, anh thanh niên lại còn có một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu nơi mình gắn bó, làm việc bằng cách tự tạo ra niềm vui từ công việc hiện thực – đẩy lùi buồn tẻ cô đơn như đọc sáng – nghiên cứu – trồng rau – trồng hoa, nuôi gà, cải thiện cuộc sống. “Thèm người” anh thanh niên tìm cách gặp người, gặp bạn để trao đổi, trò chuyện thân mật và cởi mở, luôn quan tâm chu đáo đến người khác. Anh tự tạo ra một cuộc sống ngăn nắp, khoa học, một thói quen chủ động trong mọi tình huống và công việc. Trong giao tiếp ở anh thanh niên toát lên một phong cách, một vẻ đẹp trong phong cách lời ăn tiếng nói khiêm tốn, vui vẻ, chân tình, lịch sự luôn biết sống vì mọi người.
Có thể nói ở anh thanh niên mang một vẻ đẹp trong sáng của người thanh niên thời đại mang trong mình những hiểu biết về tri thức, sống tận tụy, yêu nghề, yêu đời, hiểu được việc làm và chỗ đứng của mình từ đó mà hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ở anh còn toả sáng và sưởi ấm cho bao tâm hồn khác dẫu chỉ một lần gặp gỡ ngắn ngủi cho những người đến Sa Pa.
Qua lời kể của anh thanh niên, ông kỹ sư nông nghiệp ở vườn ươm su hào và ông kĩ sư nghiên cứu bản đồ chống sét đều là những người sống lặng thầm trên mảnh đất Sa Pa mà lao động cần mẫn, say mê, quên mình vì mục đích chung của mọi người. Họ đang làm nên cái “lặng lẽ” mà ngân vang sôi động ở Sa Pa.
Bác lái xe trong vai người dẫn truyện là điểm dừng cho mọi cuộc gặp gỡ, tình cảm nảy sinh tốt đẹp trong cuộc gặp gỡ đặc biệt là trong 30 phút ngắn ngủi giữa ông họa sĩ và cô kỹ sư đã để lại trong tình cảm những con người đối với Sa Pa là một kỉ niệm tốt đẹp. Bác là người am hiểu anh thanh niên hơn ai về cuộc sống, sinh hoạt của anh và chính bác đã tạo ra cho anh thanh niên những niềm vui về tinh thần, đẩy lùi sự cô đơn, buồn vắng. Ông họa sĩ là nhân vật hoá thân của nhà văn, người xem đây là một chuyến đi may mắn trong cuộc đời nghệ thuật của mình. Còn đối với cô kĩ sư trẻ, cô đã phát hiện ra nhiều điều mới mẻ trong chuyến đi đầu đời giúp cô nhận thức về tình yêu nghề nghiệp cuộc sống vững tin hơn trong sự lựa chọn của mình. Người ta gọi đây là những tâm hồn đồng điệu đến với Sa Pa.
Truyện có một tuyến nhân vật, không có biến cố xung đột kịch tính. Các nhân vật đều dưới những cái tên chung, có cuộc sống và công việc khác nhau khiến mọi người sa vào đó đều có bóng dáng công việc của mình. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu, giàu chất thơ mượt mà như ý nghĩa nhan đề của chính câu chuyện. Truyện ngắn như một bức tranh lung linh kì ảo đằm thắm, ấm áp tình người sâu lắng trong từng bức tranh thiên nhiên.
“Lặng lẽ Sa Pa” viết về con người bình thường, nhịp sống bình thường. Nhưng phía sau nhịp sống bình thường ấy là những âm vang âm sắc cuộc đời. Nguyễn Thành Long đã góp một tiếng nói nhỏ nhẹ để ngợi ca cuộc sống và tái hiện một cách đầy đủ những vẻ đẹp của con người, có năng lực trình độ, nhiệt thành và hăng say cách mạng trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa – Mẫu 3
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một truyện ngắn hay. Với cốt truyện đơn giản xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sapa, đã để lại trong lòng người đọc một niềm sung sướng, thú vị. Vì thế có ý kiến cho rằng:
“Đọc truyện’’ Lặng lẽ Sa Pa “của nguyễn thành Long tuổi trẻ chúng ta cảm nhận được bao điều bổ ích và thú vị: Cuộc đời thật đẹp và đáng yêu. Chung quanh ta có biết bao nhiêu con người đẹp, tâm hồn họ, việc làm của họ làm ta cảm phục,kính yêu.
Truyện lặng lẽ Sapa “gần như không cốt truyện. Một anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu và sống đơn độc trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn trăm mét. Công việc của anh bình thường nhưng vô cùng quan trọng góp phần phục vụ cho sản xuất và chiến đấu. Cuộc gặp gỡ tình cờ của ông họa sĩ già,cô kĩ sư trẻ với anh đã làm nổi bật mẫu người lí tưởng và để lại một cuộc chia tay đầy lưu luyến.
Cuộc đời của anh thanh niên cũng như ông kĩ sư vườn rau Sa Pa, anh cán bộ đo xét trong truyện thất đẹp và đáng yêu.
-Anh thanh niên còn rất trẻ vậy mà chấp nhận một cuộc sống lẻ loi cô độc trên đỉnh núi cao quanh năm chỉ làm bạn với cỏ cây, mây mù SaPa. Anh biết tự tạo cho mình có một có một cuộc bình thường:Trồng hoa, nuôi gà, đọc sách. Mặt dù ở môt nơi quanh năm vắng bóng người nhưng vẫn làm tròn nhiệm vụ một cách hoàn hảo, bởi vì anh có tinh thần trách nhiệm, ý thức vai trò của người thanh niên đối với đất nước, với con người.
– Ông kĩ sư vườn rau SaPa với công việc lặng thầm tưởng như bình thường nhưng lại có sức đóng góp cao: Thụ phấn nhân tạo cho su hào được to hơn, ngọt hơn để phục vụ cho đời sống con người.
– Người cán bộ khoa học nghiên cứu xét đã 11 năm ròng chờ xét để hoàn thành bản đồ xét hầu tìm tài nguyên cho đất nước.
Đó là những con người sống làm việc, cống hiến hết sức mình cho đời, cho nhân dân. Đúng như Nguyễn Thành Long đã nhận định: Trong cái lặng im của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.
Trong cuộc sống hôm nay,giữa thời kỳ kinh tế thị trường, những mẫu người lý tưởng ấy thật hiếm. Nếu như ai cũng biết suy nghĩ và làm việc như vậy thì đáng quý biết bao.
Hình ảnh những con người ở Sa Pa thật đáng để mọi người đang bon chen giành giật, vun vén cho quyền lợi cá nhân mình đều suy nghĩ.
Những con người ấy đã tạo thành cái thế giới của con người miệt mài lao động trong lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của mọi người.
Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa pa – Mẫu 4
Thế nào là hạnh phúc? Làm thế nào để diễn tả một cách chân thực và giản dị cảm nhận về hạnh phúc? Làm thế nào để lột hiện được chân dung một con người đang hạnh phúc? Và nữa, nếu nhà văn đã chỉ ra một cách đúng đắn hạnh phúc là gì và một con người đang hạnh phúc là như thế nào thì điều gì sẽ là mấu chốt kêu gọi sự đồng cảm của biết bao người đọc?
Một nét thôi, Nguyễn Thành Long đã khẳng định như vậy, như trong một bức kí họa, người họa sĩ phải có được một họa tiết làm bật lên nét hồn cốt của nhân vật, để khi nhìn vào bức họa đó, người khác phải nảy sinh những suy nghĩ về anh ta và cảm nhận được những điều anh ta suy nghĩ. Nếu anh ta đang hạnh phúc, thì theo đó, tác phẩm phải gieo vào lòng người đọc ấn tượng đẹp đẽ, niềm vui ấm áp và tin yêu vào cuộc sống xuất phát từ cội nguồn cảm xúc và lý tưởng sống của anh ta. Một tác phẩm làm được trọn vẹn điều này như Lặng lẽ Sa Pa là vô cùng hiếm. Bởi trong tác phẩm, không chỉ có một hai nhân vật chính có niềm yêu sống mà tất cả mọi người đều là những người yêu sống. Bởi không chỉ niềm yêu sống ấy vút lên trong những khát vọng cao vợi mà nó lan tỏa khắp nơi trong cuộc sống bình dị hàng ngày. Nguyễn Thành Long đã hòa lòng mình trong từng rung động ấy, để trái tim rung lên với niềm hạnh phúc nơi này, lặng lẽ nhưng tràn đầy.
Có biết bao người đã từng qua Sa Pa. Đã có biết bao người đã từng ước muốn đến Sa Pa. Rất nhiều trong số đó, hiển nhiên, trong cảm thức thông thường, coi Sa Pa là vùng đất đẹp, lí tưởng để nghỉ ngơi. Nhưng đến với tác phẩm của Nguyễn Thành Long, điều tưởng như hiển nhiên đã thay đổi. Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước. Những con người ấy là ai? Anh kĩ sư làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, ông kĩ sư ở vườn sau, đồng chí nghiên cứu khoa học thiết lập bản đồ sét,… Đấy là những con người trực tiếp sinh sống ở nơi này. Bổ trợ vào đó là bác lái xe, từng thân hành lên trạm khí tượng để tìm anh thanh niên “thèm người”. Và lần này, là ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ, một người đi chuyến thực tế gái già và một người vừa mới ra trường lần đầu tình nguyện lên miền núi công tác. Cả hai đã lên thăm ngôi nhà của anh thanh niên làm công tác khí tượng, đem niềm vui đơn sơ đến với những người cắm chốt ở vùng hẻo lánh. Câu chuyện vỏn vẹn có ngần ấy người, kéo dài cũng chừng vỏn vẹn một giờ đồng hồ, một nửa cho câu chuyện từ “trạm rừng” sau cầu cây số bốn giữa bác tài và hai hành khách, phần còn lại cho cuộc gặp gỡ với anh thanh niên làm khí tượng. Nhưng qua những đối thoại, suy ngẫm của họ, cuộc sống ở nơi này đã hiện lên một cách sống động, tỉ mỉ. Có thể nói, chỉ với chừng ấy thời gian, với chừng ấy sự gặp gỡ, như có một giao cảm giữa những con người lần đầu tiếp xúc, người này đã trở thành chất xúc tác để người kia bộc lộ tất cả vẻ đẹp chiều sâu tâm hồn. Như vườn hoa của anh thanh niên làm công tác khí tượng, với hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong,… mỗi người giống như một loài hoa đẹp rực rỡ tỏa hương sắc dưới trời Sa Pa.
Người đầu tiên có được niềm vui là cô kĩ sư trẻ. Lần đầu ra khỏi Hà Nội đi nhận việc tận Ty Nông nghiệp Lai Châu, bỏ lại sau lưng cuộc đời chật hẹp, những rung động non tơ còn nhiều nhầm lẫn, bước vào cuộc sống mới tinh, bát ngát, ngay từ chuyến xuất hành đầu tiên, cô đã có được sự chia sẻ từ người bạn đồng hành già. Ông họa sĩ đã chăm chút và hứa đưa cô đến tận nơi công tác như “một ông bố thực sự”. Nhưng điều làm cô cảm kích hơn cả, là với sự nhạy cảm riêng có của người nghệ sĩ, ông họa sĩ già đã nhận ra tâm trạng của cô, động viên khích lệ mà như gieo vào lòng cô định hướng, lẽ sống và niềm tin. Ông già vui tính ấy đã diễn tả một cách thanh thoát bằng lời những cảm nghĩ mơ hồ và lả tả mà cô đã cố gắng vẫn không thể định hình được. Đối với một người khao khát trời rộng, sự dứt bỏ một tình yêu nhiều khi lại nhẹ lòng. Đó là một chân lí thật giản dị, người ta phải biết quên đi những niềm vui, nỗi buồn, những ham thích nhỏ mọn để vươn tới những chân trời rộng mở, biết quên đi những cái nhỏ nhen, ích kỉ để hòa mình vào cuộc sống lao động và cống hiến vô tư, đẹp đẽ, không vụ lợi.
Cô đã cảm tình ngay với anh thanh niên làm công tác khí tượng bởi sự tương đồng trong lẽ sống mà cả hai đã lựa chọn. Nếu như lời giới thiệu của bác tài mới đủ gieo vào lòng cô một nỗi tò mò, thích thú, hoài nghi về một anh thanh niên với biểu hiện “thèm người” kì lạ thì vườn hoa, bó hoa anh tặng đã khiến cô dâng lên niềm yêu mến, cảm phục. Tình cảm ấy càng ngày càng tăng tiến khi cô bước chân vào căn nhà sạch sẽ, gọn gàng, ngăn nắp. Đặc biệt, một giá sách với nhiều sách quý. Rất thường có người lên đây thăm mà anh phải chuẩn bị tươm tất đến vậy? Không hề, bởi anh đã thổ lộ một cách hồ hởi, chân thành niềm vui như con trẻ: Tôi không biết kỉ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ Tết. Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay. Để rồi, khi lắng nghe câu chuyện giữa người thanh niên và ông họa sĩ già, cô mới nảy ra một ý định táo bạo. Cũng như anh thanh niên, cô muốn tặng cho chàng trai kia một món quà làm kỉ niệm cho lần gặp gỡ. Bởi cuộc gặp gỡ tình cờ đã làm nảy nở trong cô “một ấn tượng hàm ơn khó tả”. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên mà anh cho thêm cô. Và vì một cái gì đó nữa mà lúc này cô chưa kịp nghĩ… Chiếc khăn mùi xoa cố tình bỏ lại đã bị anh thanh niên vô tình mang trả. Dự định gửi lại “một cái cỏn con gì rồi ra có thể biến thành một chút dịu dàng, một chút xíu dũng cảm trong cuộc sống” cho anh thanh niên đã vô tình đổ bể. Cái nắm tay cuối cùng của họ nói lên nhiều điều, trong sự òa vỡ của hai tấm lòng đồng điệu. Đó không phải là một sự từ biệt đơn thuần, trong cái hành động chìa tay ra của cô gái, cả hai trái tim trong trắng ấy đều hiểu ra rằng, trong cái nắm tay cẩn trọng, rõ ràng, họ đã nói với nhau tất cả trong im lặng. Tình cảm mà họ vừa kịp nhen lên trong lòng kia sẽ không bùng cháy, nó sẽ ấp iu như ngọn lửa nhỏ sưởi ấm lòng người trong những đêm núi rừng tê lạnh. Đó là ngọn lửa của lòng cảm thông, sự sẻ chia, của những trái tim cùng chí hướng đang vươn lên giữa cuộc đời này.
Để đến được niềm vui nho nhỏ, thậm chí cuối cùng phải trốn chạy, không dám đối mặt với niềm vui quá lớn và đột ngột, khi không dám đưa tiễn hai người bạn mới xuống tận dưới xe dù giờ “ốp” chưa đến, anh thanh niên đã phải biết bao lần cố gắng. Có thể coi sự rung động trong lòng cô gái và những ý nghĩ nảy nở trong đầu ông họa sĩ là món quà quí giá bù đắp cho lòng nhiệt thành, sự chân tình và những khát vọng tưởng chừng như vô cùng lạ lẫm mà hết sức con người của anh thanh niên. Thèm người, bác lái xe đã nhấn mạnh vào đặc điểm “kì dị” nhất ấy của anh ta khi giới thiệu cho ông họa sĩ già và cô gái trẻ. Nhưng cái đặc điểm dị kì ấy lại có một sức hút đặc biệt. Bởi nó đáng yêu, thậm chí, phần nào đó đáng thương. Ai lại không thể dâng lên niềm xót thương một thanh niên phải vần cả khúc cây ra chặn đường hòng kiếm cớ dừng xe cho có người nói chuyện, cho được nghe thấy những tiếng người, nhìn thấy những con người đang hoạt động, huyên náo? Song nếu đó mới chỉ là dấu ấn để người ta phải “xúc động, tò mò” thì những cử chỉ khi anh xuất hiện khiến người ta cảm mến ngay được. Đó là sự chu đáo, chỉ nghe thấy bác tài bảo bác gái ốm anh đã đi đào tam thất mang biếu; vẻ hồn nhiên, mừng quýnh khi nhận sách bác tài mua hộ mà vẫn không quên tranh thủ ngắm nhìn hành khách cho đỡ nhớ người; rồi cả thẹn, đỏ mặt luống cuống khi bác tài giới thiệu và gợi ý anh mời hai người bạn mới lên thăm nhà.
Sau phút ban đầu bỡ ngỡ ấy, nếu vườn hoa của anh tạo được cảm tình với cô gái trẻ thì cái cách nói chuyện như báo cáo công việc để tranh thủ thời gian của anh lại tạo được cảm tình sâu đậm trong lòng người họa sĩ già. Ngay sau cái phút báo cáo liến thoắng ấy, câu chuyện bỗng nhiên chững lại. Một cảm giác mới mẻ, lạ lẫm xâm chiếm tâm hồn người họa sĩ từng đã tưởng dạn dĩ với cuộc đời. Nguyễn Thành Long đã lấy ra những câu văn thấm thía: Anh thanh niên đang nói, dừng lại. Và tại sao họa sĩ cảm giác mình bối rối? Vì nhác thấy người con gái nhỏ nhẻ, e lệ, đứng giữa các luống đơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe? Vị họa sĩ già đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài.
Cái bừng ngộ của nghệ thuật là khi ấy. Cũng có thể coi đấy là cái bừng ngộ của tâm hồn. Khi người ta nhận ra được chân lí cao vời của nghệ thuật, nhận ta được vẻ đẹp giản dị và đằm thắm của lòng người. Anh thanh niên đã sống say mê một đời sống cống hiến vô tư, không toan tính. Anh đã sống một cuộc sống giản dị nhưng cao đẹp từ việc chiến thắng các thói quen lười nhác của chính bản thân mình. Cuộc sống lao động của anh trên đỉnh Yên Sơn cần một kỉ luật lao động nghiêm ngặt và anh đã thực hiện nó nghiêm túc như một thói quen sống. Đó là lối sống của anh, trách nhiệm và niềm vui của anh. Người ta bảo anh cô đơn nhất thế gian, rằng anh “thèm người” đến não nề, anh chứng minh cho mọi người rằng thực tế không phải thế. Rằng chỉ những ngày đầu anh cảm thấy thế thôi chứ sau này anh ngẫm nghĩ ra thì không hẳn sự thực đã là như vậy. Công việc của anh gắn kết với biết bao nhiêu người. Bạn bè của anh là biết bao cây cối xung quanh, bao người bạn bất ngờ trong trang sách. Nhưng không vì thế mà anh không cần đến những con người thực, những người thỉnh thoảng ghé qua Yên Sơn này thăm anh. Anh không thèm người, mà anh thèm lòng người, những tấm chân tình của con người với con người. Đó là điều mà anh đã tâm niệm, đã suy nghĩ và muốn bộc bạch: Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mết. Còn người thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc? Đấy, cháu tự nói với cháu thế đấy. Bác lái xe đi, về Lai Châu cứ đến đây dừng lại một lát. Không vào giờ “ốp” là cháu xuống chơi, lâu thành lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: cái nhớ xe nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng…
Hóa ra, vẻ trẻ trung và cả thẹn của chàng thanh niên chỉ là vẻ bề ngoài, ẩn giấu trong hình hài non tơ ấy là một tâm hồn già dặn. Nó làm lóe lên trong trí não người họa sĩ già ước mong được vẽ tác phẩm cho cả cuộc đời mình. Bởi cùng với khát vọng khắc họa chân dung anh thanh niên, chính những phát hiện về con người anh khiến ông phát hiện ra những chân lí về nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật đối với ông là để “yêu thêm cuộc sống”, là để “đặt chính tấm lòng của nhà họa sĩ vào giữa bức tranh”. Nghệ thuật phải giao cảm với cuộc đời. Mà sự thật là như thế, nét bút của ông chỉ có thần khi thấu thị tấm lòng của anh thanh niên. Anh ta càng khiêm tốn bao nhiêu, càng không đặt mình là tâm điểm cuộc sống nơi này bao nhiêu thì vẻ đẹp của anh ta càng ngời rạng trong bức chân dung của người họa sĩ. Tất cả làm cho ông họa sĩ, từ việc sáng tạo của mình, nhận ra quy luật của cuộc sống; từ bàn tay cầm cọ của mình, hiểu thấu được cái lẽ huyền diệu của đấng sáng tạo mà bấy lâu ông từng ngộ nhận. Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng. Ví dụ như quan niệm về cái đất Sa Pa mà ông quyết định sẽ chỉ đến để nghỉ ngơi giai đoạn cuối trong đời, mà ông yêu nhưng vẫn còn tránh. Hóa ra, Sa Pa không lặng lẽ. Sa Pa sục sôi bởi cuộc sống và khát vọng của con người.
Có thể nói, trong cái lặng lẽ của mây trời Sa Pa, Nguyễn Thành Long đã vẽ nên chân dung của những niềm yêu sống, luôn rạo rực, luôn sinh sôi. Anh thanh niên làm công tác khí tượng, cô kĩ sư trẻ, ông họa sĩ già, cả bác lái xe, đều là những con người hạnh phúc. Họ hạnh phúc bởi họ được làm những việc mà họ yêu thích, tiếp xúc với những con người mà họ cảm mến, phấn đấu cho lí tưởng mà họ lựa chọn. Cả tác phẩm là một niềm vui, cái lặng lẽ của thiên nhiên cũng như cái im lặng của con người không khuất lấp được niềm vui rạo rực, sinh sôi ấy. Ngược lại, chính trong cái lặng lẽ tưởng như đang bao trùm, cái mạch sống tươi mới càng có cơ hội vươn lên, rì rào trỗi dậy. Sẽ có người hoài nghi về sự thật được thể hiện trong tác phẩm, sẽ có người cho rằng Nguyễn Thành Long đã lí tưởng hóa cuộc sống. Cuộc sống có nhiều âu lo và khúc mắc hơn thế, đâu dễ dàng gì mà người ta có thể vui tươi mà vượt qua khó khăn một cách dễ dàng như vậy. Nhưng phải đặt tác phẩm vào trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ mới thấy hết được sức sống kỳ vĩ đến ngạc nhiên của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam.
Lặng lẽ Sa Pa được sáng tác năm đầu thập kỉ 70 của thế kỉ trước, khi mà cả miền Bắc đang hồ hởi trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tất cả cho tiến bộ xã hội, tất cả cho miền Nam ruột thịt không chỉ là những khẩu hiệu cổ vũ, hô hào chung chung, nó ngấm vào trong ý thức của từng người dân, nhất là thế hệ trẻ. Nếu bạn đọc để ý, sẽ thấy tác phẩm hai lần nhắc đến tư cách đoàn viên của hai kĩ sư trẻ. Một lần là cô gái, trong tâm niệm của mình, khẳng định ý hướng sẵn sàng đi công tác ở bất kì nơi đâu. Bởi cô nghĩ mình là đoàn viên, mang trong mình ý thức của thanh niên xung kích. Lần thứ hai là chàng trai, trong lời hỏi thăm cô gái: Cũng đoàn viên, phỏng? Bởi với họ, đã là đoàn viên, đã là thế hệ tuổi trẻ của đất nước thì họ tự hào, vinh dự được đứng đầu sóng, ngọn gió, được đến mọi miền Tổ quốc phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Đấy là lí tưởng sống của một thời, là phút thăng hoa của những tâm hồn chân chất, giàu ước mơ, khát vọng và ý thức trách nhiệm. Ngày nay, có thể vì hoàn cảnh sống đã thay đổi, người ta không phải sống trong những áp lực khắc nghiệt của đời sống chiến tranh, nên ý thức xả thân vì cộng đồng có giảm nhẹ và đòi hỏi về cá nhân có phần trội át. Song không vì thế mà ý thức tự nhiệm ấy mất đi, nó phát triển theo một đường hướng khác, tuy không tạo thành những cơn phấn khích tập thể như trước, nhưng âm thầm bộc lộ trong ý thức phấn đấu phát triển trọn vẹn tất cả năng lực của mình. Vấn đề chính với thanh niên hiện nay nằm ở chỗ phải nhân rộng những ý thức chiếm lĩnh như thế. Thanh niên Việt Nam phải biết nhìn về quá khứ, ở thế hệ của những chàng trai, cô gái kĩ sư trẻ kia, những con người gối đầu lên những trang sách nóng bỏng ý chí cống hiến, hy sinh. Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người… Câu nói của Pavel Corsaghin ngày nào, giờ đây đang cần chính các thanh niên viết tiếp: sự nghiệp phát triển trọn vẹn các năng lực người, vì hòa bình, công lí và tiến bộ xã hội. Nó làm thành tương lai cho thanh niên Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam.
Đọng lại khi đọc Lặng lẽ Sa Pa là niềm vui đang cựa mình trỗi sống, là khát vọng được cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước, bằng sự nghiệp giản dị mà cao cả của mình. Hạnh phúc nảy mầm mỗi khi con người ý thức được phận vị của mình và hoạt động tự giác, hăng say với tất cả những khả năng mà mình có được. Qua một cảnh ngộ gặp gỡ, với mấy con người giản dị, trong truyện ngắn lãng mạn diệu kì, Nguyễn Thành Long đã khơi gợi trong lòng người đọc biết bao suy nghĩ. Lặng lẽ và thâm trầm, hào hứng và sôi nổi, ngỡ ngàng và lắng đọng, truyện ngắn đã gieo vào lòng người đọc cảm nhận sâu sắc về hạnh phúc. Và sự lan tỏa của hạnh phúc.
…..
Cảm nhận những âm vang từ truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Văn Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình và thường ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống. “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970, trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Lào Cai. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Từ cuộc sống và công việc thầm lặng của anh thanh niên và biết bao con người khác, tác phẩm để lại trong lòng người những âm vang nhẹ nhàng, kín đáo mà bền bỉ, dài lâu.
Trước hết, cần hiểu, âm vang của tác phẩm văn học là những tác động sâu sắc của tác phẩm đến tâm hồn và nhận thức của người đọc, thôi thúc họ suy nghĩ, ước mơ, khao khát và hành động. Để tạo ra những âm vang chân thực, tác phẩm văn học phải chứa đựng cuộc sống, bằng sức mạnh của nghệ thuật biểu hiện, tác phẩm lan tỏa vào lòng người đọc và ở lại trong đó. Sự tác động ấy có thể tạo được hiệu quả tức thời, khiến người đọc phấn khởi, hào hứng; cũng có thể là tác động lâu bền, âm ỉ nuôi dưỡng những khát khao, ước, mơ, hoài vọng. Âm vang của tác phẩm văn học góp phần làm đẹp tâm hồn người đọc, khiến họ thêm tin tưởng vào cuộc sống, đồng thời khẳng định sức sống của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người.
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long thực sự đã tạo nên được âm vang kì diệu đó. Trước hết là âm vang từ bức tranh Sa Pa xinh đẹp. Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa động lại trong lòng người cảm xúc lâng lâng, đầy thi vị.
Sa Pa hiện lên trong truyện ngắn của Nguyễn Thành Long với ngôn ngữ điêu luyện đã trở thành một bức tranh đẹp, sống động, và đầy chất thơ. Đọc truyện của ông, người đọc không còn thấy Sa Pa có vẻ đẹp hoang dã, bí ẩn mà ngược lại, thiên nhiên nơi đây đi vào truyện của Nguyễn Thành Long với một cái nhìn dịu dàng, trong trẻo như một bức tranh thủy mặc làm cho người đọc không khỏi bâng khuâng, xao xuyến.
Theo bước chân của nhà văn, ta không khỏi ngỡ ngàng trước bầu trời xanh bao la. Mây ở đây hiện ra mang một vẻ đẹp kì thú: mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe làm cho không gian ở đây trở nên mát lạnh, mờ ảo.
Có một Sa Pa của những rặng đào, những đàn bò lang cổ đeo chuông đang thung thăng gặm cỏ, khung cảnh chỉ có thể thấy ở rừng núi. Có một Sa Pa của nắng, nắng đem lại cho Sa Pa một vẻ đẹp mới: rực rỡ và bất ngờ. Ánh nắng dường như sáng dần lên trong khung cảnh thiên nhiên. Cái nắng chói chang được Nguyễn Thành Long miêu tả “đốt cháy rừng cây” và cái nắng vào cuối buổi trưa lại gay gắt hơn “ánh nắng như phủ khắp, mạ bạc cả con đèo”. Ngòi bút miêu tả đặc sắc của Nguyễn Thành Long đã tôn lên vẻ đẹp rực rỡ của nắng Sa Pa: nắng bây giờ bắt đầu lên tới đốt cháy rừng cây, hừng hực như một bó đuốc lớn.
Qua sự miêu tả của nhà văn, hình ảnh những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng đã làm nổi vật lên vẻ đẹp rực rỡ của Sa Pa. Hoa ở Sa Pa thì muôn màu rực rỡ. Khi đọc đến đây, với cảnh đẹp như vậy, người đọc mang theo cảm nhận khao khát được đến với Sa Pa để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nơi này. Có thể nói, thiên nhiên Sa Pa hiện lên đẹp thơ mộng, hư ảo và phải là người có con mắt nhìn tinh tế và chính xác, ngôn ngữ nghệ thuật giàu chất thơ mới có thể vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp như vậy.
Khung cảnh rất nên thơ và câu văn cũng đầy chất thơ. Khung cảnh mang vẻ đẹp bình yên, êm ả như không hề biết đến bom đạn, khói thuốc của chiên tranh. Dường như những thay đổi của cuộc sống không chạm được đến nơi đây. Nhan đề của truyện, thiên nhiên trong truyện cũng rất êm đềm, nhưng lặng lẽ mà không phẳng lặng, bình yên mà rất sống động.
Chỉ với vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét,hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước.
Đọc “Lặng lẽ Sa Pa”, mấy ai không yêu, không nhớ cái cảnh sắc vừa gần vừa xa, vừa thực vừa mơ, vừa mang cái vẻ thâm trầm của ngàn xưa cổ tích vừa rực rỡ, trẻ trung bởi sắc màu của muôn hoa, nghìn lá. Nhắc đến Sa Pa, chẳng mấy ai mà không muốn được một lần dạo bước non cao, ngắm nhìn trăm phương nghìn hướng cho thỏa đôi mắt và và tâm hồn. Những câu văn miêu tả theo tầng bậc, chân thực và gợi cảm của Nguyễn Thành Long quả thực đã khiến người ta thêm say mê và không ngừng thôi thúc con người lên đường khám phá.
Trên nền bức tranh thiên nhiên kì ảo ấy, Sa Pa còn đẹp thêm biết bao với những con người ngày đêm âm thầm làm việc quên mình. Qua “bức chân dung” (cả cuộc sống và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác (chủ yếu là ông họa sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã khẳng định trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang ngày đêm làm việc miệt mài, say mê cho đất nước.
Trước hết là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, một mình sống trên đỉnh Yên Sơn cao hơn hai ngàn sáu trăm mét, quanh năm suốt tháng, giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa. Đó là một con người đầy trách nhiệm, say mê với công việc và ân tình với mọi người. Anh hiểu công việc của mình tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người. Bởi thế, công việc trở thành niềm vui, là nguồn sống của anh. Anh đã tìm được hạnh phúc chân thực và quý báu ngay trong công việc hằng ngày.
Anh quan niệm công việc là người bạn đồng hành với mình, chính vì thế cuộc sống của anh không bao giờ tẻ nhạt và buồn chán. Anh tâm sự: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia”. Con người đó cũng có quan niệm về hạnh phúc thật giản dị nhưng hết sức cao đẹp – đó là được lao động, được cống hiến sức mình cho đất nước. Vì thế, khi biết tin nhờ mình phát hiện đám mây khô mà không quân ta hạ được nhiều máy bay Mĩ, anh thấy mình thật hạnh phúc. Rõ ràng, được cống hiến cho khoa học là lí tưởng sống của anh.
Suy nghĩ của anh về cuộc sống cũng thật đẹp, thật sâu sắc. Không chỉ là người có suy nghĩ đẹp, anh còn là người biết hành động đẹp. Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, một mình sống vắt vẻo trên đỉnh Yên Sơn, làm bạn với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết, sương rơi để đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, tham gia vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Dù không ai đôn đốc, kiểm tra, nhưng anh vẫn tự nguyện tự giác với tinh thần trách nhiệm cao. Công việc đòi hỏi phải thực hiện vào những thời khắc khó khăn như nửa đêm giữa mùa đông giá rét, nhưng bất kì trong hoàn cảnh nào, đến đúng thời điểm ấy là anh thức giấc, xách đèn đi ốp, xách máy đi đo, không bỏ sót một ngày nào, không quên một buổi nào, âm thầm bền bỉ suốt nhiều năm trời.
Nhưng khó khăn hơn tất cả đối với anh chính là vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt, tháng không một bóng người. Và anh đã vượt qua được bằng sự miệt mài, say mê trong công việc. Anh đã dùng tất cả thời gian, nhiệt huyết, tâm trí, sức lực cho nhiệm vụ được giao, rảnh một chút là anh lại lấy sách ra để trò chuyện. Từ những công việc lặng lẽ âm thầm đó, anh đã góp phần trực tiếp vào chiến thắng chung của quân và dân miền Bắc.
Đặc biệt, Nguyễn Thành Long đã khéo léo đưa vào truyện chi tiết anh thanh niên tặng cô gái bó hoa nhiều màu sắc sặc sỡ. Bó hoa ấy không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời Sa Pa mà nó còn là vẻ đẹp của cuộc đời mà anh thanh niên đã hào phóng tặng cho mọi người. Chi tiết ấy đã toát lên một chân lí: hãy sống đẹp, hãy quan tâm đến nhau, hãy đến với nhau bằng tất cả tấm lòng và tình cảm nhân hậu.
Chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trên miền đất của sương mù và cô đơn, còn có biết bao con người khác cũng đang ngày đêm âm thầm làm việc, cống hiến sức mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thông qua lời kể của anh thanh niên, ta còn thấy một ông kĩ sư vườn rau cần cù, say mê, chăm chỉ làm việc, ngày ngày quan sát cách lấy mật của ong, cách ong thụ phấn để tìm cách tăng năng suất cây trồng, đó là một mục đích đẹp. Còn nhà nghiên cứu khoa học thì mười một năm không xa rời cơ quan, luôn trong tư thế sẵn sàng đợt sét để lập bản đồ sét Việt Nam, tìm cho ra của chìm nông, chìm sâu dưới lòng đất để làm giàu cho đất nước. Anh mặc cho tuổi xuân trôi đi, quên cả hạnh phúc riêng tư, bất chấp mọi nguy hiểm.
Dù chỉ được giới thiệu một cách gián tiếp nhưng họ đã tạo thành một thế giới những con người tương tự như anh thanh niên luôn miệt mài lao động, trong sự hi sinh âm thầm lặng lẽ. Nhan đề của truyện là Lặng lẽ Sa Pa nhưng Sa Pa có thật sự lặng lẽ không? Tác giả đã giải thích một cách hết sức đơn giản cho người đọc: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ của Sa Pa, một Sa Pa mà chỉ nghe tên người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi có những con người đang làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước. Qua cách đặt nhan đề của truyện, tác giả muốn ca ngợi những con người sống đẹp, họ lao động một cách say mê và quên mình cho đất nước, họ đã nâng cao và mở rộng tâm hồn người đọc: hãy yêu thương nhau và sống đẹp hơn.
Ông họa sĩ xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm, là người chứng kiến, cảm nhận và khẳng định vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên. Qua nhân vật ông họa sĩ, tác giả muốn gửi gắm những suy nghĩ về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
Ông hoạ sĩ là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông biết mình đang xúc động và bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi dù khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới dù là giá trị một chuyến đi dài”. Anh thanh niên là một con người như thế và có thể là nhân vật tương lai trong một tác phẩm của ông.
Vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa cao quý của những công việc thầm lặng trên chốn Sa Pa lặng lẽ khơi gợi đã thôi thúc người hoạ sĩ sáng tác. Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa và “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”. Những xúc cảm và suy tư của nhân vật ông họa sĩ về người thanh niên và về những điều khác nữa được gợi lên từ câu chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo nên chiều sâu âm vang tư tưởng.
Ông họa sĩ hứa mười ngày nữa trở lại, còn bây giờ ông muốn dành trọn vẹn 20 phút ngắn ngủi để hiểu thật kỹ về người thanh niên, về đối tượng mà ông đang định thể hiện trong bức tranh của mình. Ông muốn làm một bức phác hoạ chân dung về anh thanh niên nhưng làm thế nào “cho người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt được chính tấm lòng của nhà hoạ sĩ vào giữa bức tranh đó? “Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài”.
Ông họa sĩ chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác, đã bắt cảm hứng của mình hiện lên trang giấy: “cũng may mà bằng mấy nét, hoạ sĩ đã ghi xong, lần đầu gương mặt của người thanh niên, người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ”.
Chính cái nhìn thật đẹp về cảnh vật và con người, những suy nghĩ đẹp, những khát vọng đẹp của ông họa sĩ đã làm nên chất thơ trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa. Cảnh sắc Sa Pa hiện lên với tất cả sắc màu và tình yêu mến thiết tha dành cho nó. Cuộc sống con người cũng được bọc trong cảm xúc nâng niu, quý trọng và nể phục của ông họa sĩ càng khiến chúng ta biết trân quý và muốn giữ gìn, tôn vinh.
Có thể xem nhân vật ông họa sĩ là nhân vật luận đề mà nhà văn đã khéo léo xây dựng. Toàn bộ vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên được nhìn nhận và ghi nhận qua ánh mắt và suy nghĩ của ông họa sĩ. Qua nhân vật ông họa sĩ, Nguyễn Thành Long bày tỏ điểm nhìn nghệ thuật về cuộc sống, lý tưởng sống của con người trong thời đại mới. Chính qua những cảm nhận sâu sắc và khát vọng sáng tạo nghệ thuật của ông họa sĩ đã tạo sức đẩy cho vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Sa Pa không ngừng lan rộng. Âm vang từ bức tranh thiên nhiên và con người nơi Sa Pa lặng lẽ vì càng thêm mạnh mẽ. Có thể nói, cái gì được chứa đựng trong nghệ thuật chân chính cũng đều rất đẹp, rất thơ, rất bền bỉ với thời gian và lan tỏa những âm vang ngọt ngào của cuộc sống.
Với “Lặng lẽ Sa Pa”, nhà văn Nguyễn Thành Long đã đem đến cho chúng ta niềm cảm hứng dạt dào về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Sa Pa. Người đọc như nghe thấy được những âm vang từ sắc hoa, sương mờ, đỉnh núi vắng lặng của Sa Pa thâm trầm; âm vang trong lời khuyên nhủ nhỏ nhẹ, tâm tình của nhà văn qua thiên truyện đầy chất thơ với cái tên độc đáo Lặng lẽ Sa Pa. Đó là hãy nhìn vào mọi người để phát hiện những điều vô cùng nhỏ nhưng đáng ca ngợi biết bao.
Cảm nhận chất thơ trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa
Nguyễn Thành Long một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường được bắt nguồn từ những con người bình dị, những sự kiện đời thường, mộc mạc của cuộc sống nên mỗi lời văn đều nhẹ nhàng, trong trẻo mà thấm đượm chất trữ tình. Lặng lẽ Sa Pa được coi là kết tinh tiêu biểu nhất cho tài năng và phong cách sáng tác của Nguyễn Thành Long. Truyện ngắn đã dựng lên bức tranh tuyệt đẹp về những con người lao động lặng lẽ và thiên nhiên Sa Pa đẹp đẽ mà đầy chất thơ.
Chất thơ là cảm xúc, hứng thú được khơi dậy trong những câu văn, đoạn văn viết về thiên nhiên, con người, mang đến cho người đọc những xúc cảm mãnh liệt, chân thực. Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, chất thơ được thấm đượm trong cảnh vật, từng con người. Đó là chất thơ trong thiên nhiên Sa Pa hùng vĩ, thơ mộng, là chất thơ ẩn chứa bên trong vẻ đẹp lặng lẽ nhưng đầy cao cả, ý nghĩa của nhân vật anh thanh niên, của bác họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ.
Nguyễn Thành Long không tập trung khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa, thế nhưng chỉ với một vài nét vẽ ngẫu nhiên, hình ảnh Sa Pa thơ mộng, đầy hấp dẫn được mở ra chân thực trước mắt người đọc, đó là một vùng đất được “bắt đầu với những rặng đào” và những “đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”. Sa Pa trở nên rực rỡ, tươi sáng dưới ánh nắng ngập tràn “nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn”, cây cối ở Sa Pa cũng mang một nét đẹp đặc biệt, vừa hoang dã vừa tươi mới “những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng”. Dưới bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ, những hình ảnh quen thuộc, bình dị trở nên thật đẹp, thật nên thơ. Qua những dòng miêu tả ngắn gọn nhưng súc tích, gợi cảm ấy, người đọc cảm nhận được một Sa Pa rộng lớn, hùng vĩ nhưng không hoang vu, lạnh lẽo mà thơ mộng, đẹp đẽ, hữu tình.
Chất thơ không chỉ thấm đượm trong những câu văn viết về thiên nhiên Sa Pa mà còn tỏa ra từ chính những con người lặng lẽ trong câu chuyện. Đầu tiên là nhân vật anh thanh niên, từng suy nghĩ, hành động, quan niệm sống của anh đều toát lên một vẻ đẹp đáng trân trọng. Anh thanh niên làm “công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu” trên đỉnh núi Yên Sơn bốn bề chỉ cây cỏ, mây mù lạnh lẽo. Công việc vất vả, đòi hỏi độ chính xác cao, cuộc sống cô đơn, thiếu vắng bóng người, thế nhưng anh vẫn đam mê, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. Với anh, được làm công việc mình yêu thích thì sẽ không thấy cô đơn, bởi “khi ta làm việc, ta với công việc là một, sao lại gọi là một mình được”. Anh coi công việc là một phần không thể thiếu của cuộc sống “Công việc của cháu gian khổ thật đấy chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
Anh thanh niên còn gây ấn tượng với người đọc về tinh thần lạc quan, yêu đời. Tuy sống một mình nhưng anh biết cách tìm niềm vui cho mình, anh trồng hoa, nuôi gà, đọc sách. Nhà cửa được anh sắp xếp một cách ngăn nắp, gọn gàng. Anh còn là một người cởi mở, chân thành, sống tình cảm, điều này được thể hiện qua thái độ tiếp đón ân cần, chu đáo với bác lái xe, ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Khi chia tay với mọi người anh còn tặng trứng gà, củ tam thất cho mọi người để làm quà.
Điều đáng quý nhất ở anh thanh niên là thái độ khiêm tốn và sự hi sinh thầm lặng. Khi ông họa sĩ bày tỏ mong muốn vẽ một bức tranh chân dung của anh thì anh đã hào hứng giới thiệu cho ông những người xứng đáng hơn mình. Sự khiêm tốn và những cống hiến thầm lặng của anh đã mang đến sự xúc động và khơi dậy những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về lẽ sống, cuộc đời, nghệ thuật cho tất cả mọi người.
Ông họa sĩ già là một người từng trải, có kinh nghiệm sống phong phú. Cũng giống như anh thanh niên, ông họa sĩ cũng là một người yêu nghề. Ông thực hiện hành trình lên Sa Pa để tìm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Trái tim người nghệ sĩ ấy đã rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn người thanh niên trẻ. Trước khi chia tay ông đã bày tỏ mong muốn được vẽ bức tranh chân dung của anh thanh niên – đối tượng nghệ thuật đẹp đẽ nhất mà ông đã khá được trong chuyến đi của mình.
Cô kĩ sư trẻ mang trong mình lòng nhiệt huyết của của trẻ. Để thực hiện đam mê của bản thân, cô đã chấp nhận rời thành phố để về một vùng xa xôi để công tác. Sau cuộc trò chuyện với anh thanh niên, cô có thêm niềm tin và cảm nhận sâu sắc hơn về ý nghĩa của công việc mà mình sẽ làm.
Anh thanh niên, ông họa sĩ hay cô kĩ sư trẻ đều là những con người bình thường trong cuộc sống đời thường. Thế nhưng chính tình yêu và trách nhiệm dành cho công việc khiến họ trở nên thật đặc biệt. Họ đẹp trong chính cái đời thường, bình dị.
Có thể thấy chất thơ chính là một trong những yếu tố quan trọng làm nên giá trị của truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa. Ý thơ như toát ra từ những câu văn, đoạn văn một cách tự nhiên, đầy rung động. Hình ảnh thiên nhiên Sa Pa và người lao động vô danh ngày đêm thầm lặng trong sự nghiệp dựng xây đất nước đã mang đến cho người đọc những cảm nhận thật đẹp, nó khơi dậy những rung động thầm kín, nhen nhóm lên lí tưởng sống cao đẹp, ý nghĩa trong trái tim mỗi người.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Sơ đồ tư duy) 2 Dàn ý & 8 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.