Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc 3 Dàn ý + 20 bức tranh tứ bình Việt Bắc (Sơ đồ tư duy) tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc của Tố Hữu gồm 20 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết và sơ đồ tư duy. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều nguồn tư liệu học tập, củng cố kỹ năng viết văn ngày một hay hơn.
Bức tranh tứ bình Việt Bắc là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng. Với nghệ thuật tứ bình tạo sự cân đối hài hòa và có tác dụng khắc họa toàn diện vẻ đẹp của đối tượng, bốn bức tranh trên tôn lên giá trị của nhau, không thể tách riêng, chúng là bức tranh tuyệt sắc có sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên. Vậy sau đây là TOP 20 bài phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi những bài văn mẫu sau. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc.
Dàn ý bức tranh tứ bình Việt Bắc
a) Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.
– Giới thiệu bài thơ Việt Bắc: là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu tổng kết về cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, là lời tri ân sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.
– Bức tranh tứ bình được xem là những vần thơ tuyệt bút trong bài thơ Việt Bắc.
b) Thân bài: Phân tích bức tranh tứ bình thiên nhiên Việt Bắc
* Khái quát chung về bài thơ Việt Bắc
– hòan cảnh sáng tác: nhân sự kiện chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu từ Việt Bắc đến thủ đô, Tố Hữu đã viết bài thơ này.
– Những câu thơ trong bức tranh tứ bình là lời của người ra đi gửi đến người ở lại.
– Hai câu thơ đầu của đoạn thơ là lời ướm hỏi của người ra đi băn khoăn về tình cảm ở lại với mình để từ đó giãi bày tâm tư, nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
* Luận điểm 1: Bức tranh mùa đông
– “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: sử dụng bút pháp chấm phá: nổi bật trên nền xanh rộng lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối (màu đỏ hoa chuối gợi liên tưởng đến hình ảnh ngọn đuốc xua đi cái lạnh của của núi rừng mùa đông) và màu vàng của những đốm nắng.
– “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: hình ảnh tia nắng ánh lên từ con dao gài thắt lưng gợi dáng vẻ khỏe khoắn, lớn lao của người lao động, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, cuộc sống.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân
– “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: màu trắng tinh khôi của hoa mơ tràn ngập không gian núi rừng, thiên nhiên tràn đầy nhựa sống khi xuân về.
– Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “chuốt từng sợi giang”: hành động chăm chút, tỉ mỉ với từng thành quả lao động của mình.
* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ
– “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: toàn bộ khung cảnh thiên nhiên như đột ngột chuyển sang sắc vàng qua động từ “đổ”
- Có thể liên tưởng màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống
- Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.
– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái” – cách gọi thể hiện sự trân trọng, yêu thương của tác giả với con người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.
* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu
– “Rừng thu trăng rọi hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc, đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do.
– Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng thủy chung, nặng ân tình.
* Đánh giá chung:
– Nêu cảm nhận chung về bức tranh tứ bình: Nghệ thuật tứ bình tạo sự cân đối hài hòa và có tác dụng khắc họa toàn diện vẻ đẹp của đối tượng, bốn bức tranh trên tôn lên giá trị của nhau, không thể tách riêng, chúng là bức tranh tuyệt sắc có sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên.
c) Kết bài
– Khái quát lại những nét nghệ thuật đặc sắc và phong cách thơ Tố Hữu: tính dân tộc đậm đà (thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp trong văn học dân gian, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giọng thơ thiết tha.)
– Tổng kết giá trị nội dung toàn bài thơ: là khúc hùng ca và khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
…………………..
Sơ đồ tư duy bức tranh tứ bình Việt Bắc
Phân tích bức tranh tứ bình hay nhất – Mẫu 1
Ngoài là một nhà thơ xuất sắc ,Tố Hữu còn là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì đất nước. Bởi vậy thơ ông luôn toát lên ý chí cách mạng và tinh thần dân tộc sâu sắc mang đậm khí thế hào hùng nhưng cũng ngọt ngọt ngào phong vị trữ tình sâu lắng. Việt Bắc là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu. Bài thơ vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến vừa là khúc tình ca mang đầy màu sắc khi miêu tả thiên nhiên và con người vùng núi mà nổi bật nhất là đoạn thơ khắc họa bức tranh bốn mùa tuyệt đẹp.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954 sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi miền Bắc được giải phóng trở lại và tiếp tục cuộc sống mới. Những người chiến sĩ cách mạng sau bao năm tháng chiến đấu gian khổ từ căn cứ miền núi trở về lại miền xuôi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về lại thủ đô. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lớn của đất nước có vai trò như là một áng văn tổng kết lại mười năm năm kháng chiến gian khổ mà đầy tình nghĩa ấm áp của người dân miền núi giản dị hiền hậu. Bên cạnh những câu thơ mang đậm khí thế hào hùng ghi lại cuộc kháng chiến bài thơ còn có những đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình dạt dào tình cảm thắm thiết. Cho nên ngoài miêu tả cuộc cách mạng Tố Hữu còn miêu tả cuộc sống và thiên nhiên Việt Bắc nơi ông và đồng đội gắn bó như ruột thịt. Nhớ về miền núi là nhớ về con người và thiên nhiên đầy màu sắc tươi đẹp. Bằng thể thơ lục bát truyền thống tác giả đã vẽ lên hình ảnh Việt Bắc qua bốn mùa trong năm tạo thành bức tranh tứ bình tuyệt đẹp và hoàn thiện. Cũng giống như những đoạn thơ khác phần mởầu là lời đối đáp mình- ta quen thuộc trong ca dao, nó như lời mở đầu của đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”
Người trở về vừa ướm hỏi vừa khẳng định tình cảm của mình với người ở lại. Dù không còn gắn bó nhưng vẫn luôn nhớ về nơi này với những gì đẹp nhất “những hoa cùng người”. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên đất trời. Và mỗi con người ở đây cũng như những bó hoa tươi đẹp toát lên ở tâm hồn và phẩm chất, họ luôn nồng hậu, tình nghĩa. Người và hoa hiện diện trong nỗi nhớ của người đi. Nhớ đến hoa là nhớ đến người và nhớ đến người là luôn xuất hiện sắc hoa tươi tắn. Nhờ thế chủ mà chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu một cách rất tự nhiên đó là hoa và con người Việt Bắc những câu thơ tiếp theo đã lần lượt vẽ lên rõ ràng hình ảnh đó:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Nói đến miền núi Việt Bắc là nói đến sự bạt ngàn của những cánh rừng nơi con người và thiên nhiên chung sống hài hòa gắn bó. Vậy nên gam màu chủ đạo của bức tranh đầu tiên này là một màu xanh tươi mát bất tận của các loại cây rừng nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ và càng yên tĩnh hơn trong mùa đông giá rét. Thời tiết lạnh lẽo nhưng trên cái nền xanh mênh mông đó nổi bật lên một gam màu tươi tắn rực rỡ đó là màu đỏ của những bông hoa chuối rừng. Bông hoa chuối đỏ tươi với thân tròn, đầu thuôn nhọn về phía trước như những ngọn đốt cháy rực. Hoa chuối là một loài hoa quen thuộc và tác giả không miêu tả nhiều về nó chỉ với hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đã gợi lên sự rực rỡ lạ thường làm không gian xanh ngát trở nên sáng hơn, rất đẹp khi có điểm nhấn cực kỳ ấn tượng đó. Đồng thời khung cảnh núi rừng lại được tô điểm thêm bởi tia nắng ở câu tiếp theo “ Đèo cao nắng ánh” càng làm cho không khí vốn trầm mặc đơn điệu trở nên tươi tắn và sinh động hơn rất nhiều trên nền cảnh thiên nhiên ấy hình ảnh con người xuất hiện:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Vùng miền núi với những ngọn đồi cao thấp tạo nên địa hình hiểm trở đặc trưng cho nơi đây. Người dân Việt Bắc lao động ở đó, đứng trên những ngọn đồi cao làm công việc thường ngày. Dù trời vào đông nhưng trên núi vẫn có nắng dịu nhẹ ấm áp. Những tia nắng chiếu xuống ngọn đồi, chiếu cả vào chiếc dao làm rừng tạo nên ánh sáng chói lóa như có thêm một mặt trời thứ hai. Ánh nắng mặt trời lấp lánh đi theo con người lao động không chỉ gợi lên sự lung linh mà hình ảnh này còn thể hiện một tư thế tự tin, vững chãi của người làm chủ núi rừng bạt ngàn rộng lớn. Tố Hữu mô tả con người trong tư thế ấy không chỉ ở mỗi bài thơ này, trong bài Lên Tây Bắc tác giả cũng viết:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.”
Những dãy núi, ngọn đồi kỳ vĩ nối tiếp nhau với địa hình hiểm trở khó đi, nhưng những con người vẫn lao động không ngại gian khổ đã gắn bó với núi rừng và làm chủ nơi bạt ngàn kỳ vĩ đó. Hình ảnh con người vẫn hiện lên thật đẹp nổi bật với ánh sáng của sự hy vọng và vươn lên. Tố Hữu đã rất tài tình khi viết lên câu thơ này song song cùng màu đỏ tươi của bông hoa chuối là con người khỏe khoắn sáng lên ánh dao phản chiếu mặt trời chói lóa. Ở bức tranh thứ hai cảnh vật lại mang một vẻ đẹp khác:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Sau màu xanh ngắt ngút ngàn của núi rừng là màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Chữ “trắng rừng” khiến cả khu rừng như bừng sáng lên phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với Tố Hữu nó không chỉ nói lên màu trắng của hoa mơ mà còn như thể hiện sự trong sáng mới mẻ của cuộc sống mới sau này vậy. Trong bài Theo chân Bác Tố Hữu cũng nói đến sắc trắng của rừng mơ
“Ôi Sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới ngói nở hoa
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.
Mùa xuân ở miền núi mang đặc trưng bởi sắc trắng của những chùm hoa mơ rừng. Đó là màu trắng tinh khôi trong trẻo thanh khiết của đất trời ngày xuân mới bắt, đầu một năm mới. Trên nền trắng tinh khôi đó hiện lên hình ảnh con người trong công việc thầm lặng mà đầy tính nghệ thật :
“ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Người miền núi không chỉ đi làm nương rẫy mà họ còn làm những việc thủ công đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ. Hai chữ “chuốt từng” như miêu tả một hành động vô cùng tỉ mỉ và cẩn thận. Con người Việt Bắc không chỉ khỏe mạnh cần cù mà còn rất tài hoa. Hai bức tranh đầu tiên đã vẽ lên hình ảnh con người và thiên nhiên trong hai mùa đông và xuân với đường nét, màu sắc và ánh sáng đến bức tranh tiếp theo đã xuất hiện âm thanh:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Âm thanh rộn rã của tiếng ve trong mùa hè đã làm tưng bừng rộn rã cả không gian núi rừng. Trời nắng gắt, tiếng ve càng làm cho không gian sao động, tác giả sử dụng động từ “đổ” thật độc đáo và gợi hình như có sự phản ứng theo dây chuyền. Âm thanh rộn rã của tiếng ve đã làm những rừng phách chuyển màu vàng. Từ “đổ” là một động từ mạnh diễn tả trạng thái nhanh và bất ngờ. Đây là một hình ảnh kỳ lạ và đặc biệt ở những cánh rừng phách Việt Bắc: trong những ngày cuối cùng của mùa xuân những cây phách vẫn có màu xanh, nụ hoa vẫn giấu kín trong những kẽ lá nhưng khi tiếng ve đầu tiên của mùa hạ cất lên chúng đột ngột nở rộ những chùm hoa vàng rực. Cả rừng cây cởi bỏ bộ áo trắng tinh khiết của hoa mơ vào mùa xuân để khoác lên mình tấm áo vàng rực rỡ trong mùa hè sôi động gay gắt. Trên nền tràn ngập màu sắc ấy lại là hình ảnh rất bình dị của con người: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Giữa sự sôi động rực rỡ của cảnh vật trong mùa hè là sự kiên nhẫn thầm lặng của một người con gái một mình hái những búp măng rừng. Hình ảnh đó toát lên dáng điệu chịu thương chịu khó giàu đức hi sinh. Ta thấy được cả sự cảm thương kín đáo của tác giả qua câu thơ.
Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh mùa thu trong đêm. Cả ba bức tranh trước đều miêu tả cảnh ngày, riêng bức tranh cuối này lại được miêu tả vào ban đêm. Phải chăng mùa thu là mùa mà vầng trăng tròn và sáng nhất.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Khu rừng trong đêm âm u tĩnh mịch mà lấp lánh sáng ngời bởi ánh trăng và đó chính là hình ảnh của sự tự do. Ánh trăng sáng tươi đẹp trên nền bầu trời hòa bình của dân tộc. Trong đêm trăng tươi đẹp những con người Việt bắt cất lên câu hát ngọt ngào đó là câu hát giao duyên đằm thắm vui tươi. Nhớ về con người là nhớ về hình dáng lao động và cả tiếng hát của họ. Âm thanh đó không chỉ làm xao xuyến tâm hồn mà nó còn có một sức ám ảnh khôn nguôi.
Bằng những câu thơ lục bát nhẹ nhàng với cách sử dụng từ ngữ linh hoạt đầy tài hoa, Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về con người và thiên nhiên nơi rừng núi hoang sơ mà tươi đẹp Việt Bắc. Đoạn thơ mang nét cổ điển của thi ca truyền thống khi miêu tả cảnh thiên nhiên thành bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp và trọn vẹn nhưng cũng mang màu sắc vô cùng tươi mới hiện đại bởi trong bức tranh đó luôn có hình ảnh con người đang xen một cách hài hòa. Con người nổi bật trên nền thiên nhiên, làm chủ thể cho vẻ đẹp. Việt Bắc vì thế được miêu tả hoàn thiện trong bốn mùa mỗi mùa đều mang màu sắc và hoạt động riêng của con người nhưng đều đẹp và thơ mộng.
Mười câu thơ trên chính là đoạn thơ tiêu biểu nhất trong tác phẩm Việt Bắc một bài thơ dài và ý nghĩa. Phải có một tài năng đặc biệt, một tấm lòng yêu đời yêu người tha thiết Tố Hữu mới có thể viết lên những câu thơ hay đến như vậy.
Phân tích Việt Bắc bức tranh tứ bình – Mẫu 2
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với suy nghĩ tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, và thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với nhân dân sâu sắc, vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với người dân. Ông đã để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, và giàu giá trị với phong các trữ tình và chính trị sâu sắc đậm đà những bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc ta có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Việt Bắc đã được Tố Hữu sáng tác vào đầu tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc quay về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay cùng từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay đầy lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc chính là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp mộng mơ.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Mở đầu của đoạn thơ là câu hỏi tu từ nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh với nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là những lời hỏi đáp của ta tức là của người cán bộ kháng chiến đã về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta những người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc đã để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở những nơi xa xôi, dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với chiến khu Việt Bắc. Chữ “ta” , “nhớ” được điệp đi và điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ đã hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên, với núi rừng và con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của nơi hương sắc, còn “người” là kết tinh với đời sống xã hội. Xét cho đến cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được đặt cạnh nhau lại càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả những không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo đã tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người đã hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ thật bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng tạo thành một bức tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng, màu sắc, và đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mở đầu cho một bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc là rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên đó là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước đã có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào đầu tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông Việt Bắc cũng tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.
Nhớ về nơi mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, và âm u mà nhớ đến những ngày mùa đông rực rỡ, nắng vàng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc đã làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” là hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như những ngọn đuốc, đã đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng ở nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm đã tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, đã ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân đi lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của những người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đó là ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho những hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa xuân ấm áp vui hơn:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Hình ảnh những bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng có màu không phải màu trắng điểm như trong bài Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, và tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, và nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ đã nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” cũng đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà và để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân ở nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng mà tác giả dành cho những người mà họ yêu thương.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Khi âm thanh của những tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng và đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì cùng những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu ả vàng. Cả không gian Việt Bắc cũng như được nhuộm sắc vàng rực rỡ và thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh những cô em hái măng. Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, và cần cù siêng năng, chăm chỉ. Măng là thứ rau nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng có một mình cho thấy được sự yên tĩnh và thư thái. Câu thơ đã làm cho ta liên tưởng đến câu thơ:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Nếu đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, và mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu thơ mộng là hoa gì, Mùa thu còn không có hoa mà mùa thu cũng có người mà con người là loài hoa đẹp nhất: “Người ta là hoa của đất”.
Khác với nền văn học thời trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì đây nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho những cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ bởi ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Nếu câu thơ lục câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có là “tiếng hát ân tình”. Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh và lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong những thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, và êm ả và ân tình thủy chung.
Đoạn thơ đã dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và con người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” và “mình nhớ ta”. Tình cảm vô cùng tha thiết, thiêng liêng, và biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua những ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc với những con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, và in đậm trong lòng người.
Tóm lại, với 10 câu thơ trên, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, vói câu bát tả người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một trong những bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được là tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung luôn son sắc với những con người chất phát và hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của tác giả Tố Hữu với Việt Bắc. Và ở mỗi bản thân chúng ta, cũng cần phải biết đến những địa danh của nơi Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, là chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước thật yên bình và xinh đẹp như ngày hôm nay.
Bức tranh tứ bình Việt Bắc – Mẫu 3
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Tố Hữu – một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh dũng cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác vô cùng trữ tình về người chiến sĩ trong thời chiến thông qua bài thơ Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là những hồi ức của người ra đi về bức tranh tứ bình Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mười câu thơ là hình ảnh đan xen giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc trong tâm trí của người ra đi. Mở đầu, người ra đi khẳng định tình cảm của mình dành cho những người ở lại:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.
Sau khi khẳng định nỗi nhớ của mình dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc, người ra đi cụ thể hóa nỗi nhớ ấy qua từng mùa trong năm, mở đầu là mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Kết thúc mùa đông, mùa xuân hiện ra với vẻ tinh khôi:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ mạnh “đổ” diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu thanh bình, êm ả:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hòan chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Cảm nhận bức tranh tứ bình Việt Bắc – Mẫu 4
Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.
Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ, tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:
“Em nhớ: một sáng ngày mùa đông
Gió bấc ào ào tiếng hãi hùng
Theo khe cửa sổ gió thổi rú
Chỉ nghe tiếng gió mà lạnh lùng”
Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:
“Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa
Gió phẩy mùa băng giải mặt sông”
Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu càng thêm nổi bật và ấn tượng.
Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:
“Trời lơ lửng cao vút không buông gió
Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng
Êm đềm sóng lụa trên trên lúa
Nhạc ngựa đường xa lắc tiếng đồng
Quán cũ nằm lười trên sóng nắng
Bà hàng thừa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
Đứng lặng trong mây một cánh diều”
Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.
Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.
Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.
Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 5
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.
Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hòai niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hòai niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về”
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hòan chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 6
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của phong trào thơ ca Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm của ông như một vũ khí nhằm chống lại quân xâm lược, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân.
Bài thơ “Việt Bắc” được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm xúc, nghẹn ngào tâm tư tình cảm.
Xuyên suốt trong bài thơ là những dòng tâm sự, thể hiện tình cảm giữa mình và ta, giữa quân và dân chứa chan, sâu sắc. Tác giả Tố Hữu là người đã tham gia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nên những vần thơ của ông vô cùng giản dị, mộc mạc gần gũi, khi đọc bài thơ lên ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu tâm tư trong tình cảm của người chiến sĩ
Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống gần gũi, với người nghe. Trong bài thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt tài tình thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt bài thơ còn xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
“Ta” và “mình” thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ rời đi
Tác giả Tố Hữu đã vô cùng khôn khéo khi dẫn dắt người đọc tới những cảnh đẹp vô cùng nên thơ lãng mạn của núi rừng Việt Bắc, vẽ lên một mùa đông ấm áp, nhưng ngập tràn tình yêu thương, niềm tin của những con người phúc hậu nơi đây.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở lên giữa mùa đông lạnh giá làm cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng vô cùng sinh động, ấm áp lòng người bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là vũ khí phòng thân, công cụ làm việc thể hiện sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình
Đồng thời ánh nắng mùa đông là cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Trong hai câu thơ này tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.
Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa xuân càng gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào
Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng luôn gắn liền với những con người nơi đây. Khi tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc tác giả luôn nhớ về những con người, những hoạt động của con người nơi đây thể hiện tình cảm sâu đậm của tác giả với mảnh đất gắn bó suốt 15 năm.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Sang mùa hè tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè là mùa sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, sự tinh khôi của màu xuân, khi mùa hè tới rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng, thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.
Bức tranh thiên nhiên về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ phách, huyên náo tiếng ve kêu. Ở mỗi bức tranh tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với bóng dáng con người, thể hiện sự kết hợp khôn khéo giữa con người và thiên nhiên nơi đây.
Giữa không gian bao la của núi rừng Việt Bắc tác giả đã khôn khéo kết hợp thiên nhiên có hình ảnh người con gái hái măng rừng, một hành động quen thuộc, gần gũi nhưng được Tố Hữu vẽ lên thật dịu dàng, nên thơ.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ trữ tình hình ảnh ánh trăng hòa bình, sáng trong nên thơ thể hiện sự tròn đầy, chung thủy trước sau như một của người dân nơi đây với cách mạng, với những chiến sĩ anh dũng đã hy sinh thân mình để bảo vệ dân tộc, bảo vệ mảnh đất thân yêu này.
Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.
Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 7
Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, ta không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, đầy lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn chất chứa những hình ảnh đậm chất trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ “ta về” mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh “hoa cùng người”, phải chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đeo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc – cái nôi cách mạng Việt Nam.
Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: “Mường lát hoa về trong đêm hơi”. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng, như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kì vĩ, lớn lao.
Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: “mơ nở trắng rừng”. Nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu dàng: “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ “chuối” kết hợp với trợ từ “từng” đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: “cô em gái hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không hề cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.
Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát “ân tình” khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc.
Nếu câu lục nói về cảnh thì câu bát lại nói về người. Cái đẹp của bài thơ là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ tình giàu sức sống như cái nền để làm nổi bật hình ảnh những con người Việt Bắc thật đáng yêu, cần cù, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt.
Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.
Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 8
“Việt Bắc” – bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ “Việt Bắc” nói lên bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta,
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Hai câu thơ đầu là lời hỏi – đáp của “ta”, của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình “có nhớ ta”. Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc: “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Chữ “ta”, chữ “nhớ” được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về “những hoa cùng người”, hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:
“Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Hai chữ “mình – ta” xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông nhớ màu “xanh” của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy “dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh…”. Con dao của người đi nương rẫy phản quang “nắng ánh” rất gợi cảm:
“Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “nắng ánh” từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên “đèo cao” ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:
“Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
(“Lên Tây Bắc”)
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”. Chữ “trắng” là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ “nở trắng rừng”, gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong “Truyện Kiều”:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Nhớ “mơ nở trắng rừng”, nhớ người thợ thủ công đan nón “chuốt rừng sợi giang”. “Chuốt” nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể “chuốt từng sợi giang” để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi “hái măng một mình” giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Một chữ “đổ” tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ “đổ” chuyển cảm giác tương tự: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (Thơ duyên – 1938). Câu thơ “Nhớ cô em gái hái măng một mình” là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng: “Gái” vần với “hái”. Có điệp âm qua các phụ âm “m”: “măng – một – mình”. Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. “Cô em gái hái măng một mình” vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần “nuôi quân” phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Trăng xưa “vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”. Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng “rọi” qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu “hòa bình” nên thơ. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hy sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong “Việt Bắc” cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay…”
Thơ đích thực “là ảnh, là nhân ảnh…, từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la” (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp”, để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 9
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với dân sâu sắc. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ tình – chính trị sâu sắc đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta của người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ “ta” và “nhớ” được điệp đi điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của hương sắc, còn “người” là kết tinh của đời sống xã hội. Xét cho cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng , màu sắc , đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa Đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông việt bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.
Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu nhớ đến những ngày màu đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc. nó giống như màu nên làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” – hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm áp vui hơn
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân – hình ảnh bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trắng điểm như trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng dành cho những người mà họ yêu thương.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng . Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, cần cù siêng năng , chăm chỉ . Măng là thứ rau để nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng một mình cho thấy được sự yên tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người. mà con người là loài hoa đẹp nhất. “Người ta là hoa của đất”.
Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có “tiếng hát ân tình”. Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở nhưng câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, êm ả và ân tình thủy chung
Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” “mình nhớ ta”. Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng liêng, biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc với con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.
Tóm lại, với 10 câu thơ , Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh , câu bát tả người, Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp , đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của Tố Hữu với Việt Bắc . Và ở mỗi bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước yên bình , xinh đẹp như ngày hôm nay.
Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 10
Sống ân nghĩa, thủy chung chính là một lối sống văn hóa đẹp đẽ từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Nét đẹp đó đã được lưu giữ trong rất nhiều tác phẩm văn học khác nhau và một trong số đó ta không thể không kể đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:
“Ta về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Việt Bắc không đơn thuần chỉ là một địa danh, là một nơi để chiến đấu mà còn là nơi chứa đựng đầy những kỉ niệm, đầy tình người tha thiết, sâu nặng. Bởi vậy, trong khoảnh khắc chia tay bất cứ ai cũng bồi hồi xúc động, nhớ về những kỉ niệm đã qua. Kỉ niệm đó là lớp học, là những ngày tháng liên hoan những năm kháng chiến và còn một nỗi nhớ khác chính là về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Thiên nhiên Việt Bắc trong bức tranh tứ bình hiện lên vô cùng cô đọng, hàm súc, đại diện cho bốn mùa. Mùa đông là mùa đầu tiên xuất hiện trong bức tranh tứ bình:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Khi đọc câu thơ lên, bất chợt trong lòng mỗi người sẽ không hình dung đến mùa đông âm u, lạnh lẽo mà phải là mùa xuân ngập đầy sức sống, hay mùa hạ rực rỡ. Nhưng không, đây lại chính là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông. Trên cái nền xanh ngắt của rừng bạt ngàn là màu đỏ rực của hoa chuối. Cái ấm nóng rực rỡ dù nhỏ nhưng dường như đã làm cả bức tranh bừng sáng, trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong đó.
Bức tranh thứ hai chính là mùa xuân. Ở đây khung cảnh thiên nhiên mang cái thanh khiết, dịu dàng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Câu thơ làm ta bất chợt nhớ đến cảnh:“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về… im lặng. Con chim hót/ thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”. Xuân sang hè đến rực rỡ, muôn màu sắc và âm thanh. Là tiếng ve kêu rộn ràng, như một bản đàn chào đón mùa hè, cùng với đó là sắc rực rỡ của “rừng phách đổ vàng”. Là tiếng ve làm cho rừng phách đổ vàng hay bản thân nó vốn như vậy? Dù hiểu theo cách nào thì khung cảnh hiện lên cũng thật rực rỡ và ấm áp.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu:
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Ánh trăng dìu dịu của mùa thu lan tỏa khắp không gian. Trong màu sắc ấy, không gian ấy còn bừng lên khát vọng về một cuộc sống tự do, hòa bình. Dưới con mắt quan sát tinh tường của Tố Hữu, mỗi mùa ở nơi đây thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ, thật đặc biệt. Có lẽ phải gắn bó và tha thiết yêu lắm ông mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng nét đẹp tinh túy nhất của cảnh vật như vậy.
Đan xen ở mỗi bức tranh là hình ảnh của con người Việt Bắc. Ông không chỉ yêu quý, trân trọng thiên nhiên nơi đây mà còn tha thiết, chân thành với con người Việt Bắc. Ở mỗi đối tượng ông đều khám phá, nắm bắt được những vẻ đẹp khu biệt của họ. Là hình ảnh người nông dân lên núi làm việc với lưỡi dao lấp lánh dưới ánh nắng của mùa đông. Là bàn tay khéo léo của người đan nón thanh tĩnh “chuốt từng sợi giang” vô cùng điêu luyện. Bức tranh càng trở nên thơ mộng hơn với “Cô em gái hái măng một mình” ven suối bên tiếng ve kêu rộn rã. Và cuối cùng là tiếng hát tha thiết, trầm bổng vang vọng khắp không gian núi rừng Việt Bắc. Khúc hát vang lên cuối khổ thơ, kết hợp với hình ảnh ánh trăng càng làm rõ hơn nữa khát khao hòa bình, độc lập trong lòng tác giả.
Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, bởi vậy bao trùm trong từng câu từng chữ là nhịp điệu nhẹ nhàng, trầm bổng từng bước một dẫn con người ta vào quá khứ đẹp đẽ, ân nghĩa, thủy chung. Nhịp điệu ấy cùng với thể thơ lục bát càng khiến cho nỗi nhớ trở nên bâng khuâng, da diết hơn.
Khép lại khổ thơ, nỗi nhớ bâng khuâng tha thiết vẫn trải dài, vang vọng khắp không gian. Nỗi nhớ ấy như một lời tri âm sâu nặng của tác giả đối với thiên nhiên và con người nơi đây. Đồng thời với việc lựa chọn các hình ảnh bình dị, ngôn ngữ thơ trong sáng dễ hiểu nhưng lại tạo nên một bức tranh tứ bình đặc sắc lại một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.
……………….
Mời các bạn tải File tài liệu để xem thêm bài phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc 3 Dàn ý + 20 bức tranh tứ bình Việt Bắc (Sơ đồ tư duy) tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.