Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang 2 Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 11 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện trong bài thơ Tràng giang bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 12 mẫu cực hay, dễ hiểu, dễ nhớ. Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang được gợi lên từ đề tài, cảm hứng sáng tác và chất liệu thi ca. Tràng giang đượm một nỗi sầu vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng.
TOP 12 bài văn phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng giang gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng luyện viết văn các bạn xem thêm phân tích khổ 1 Tràng giang, mở bài Tràng giang.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
- Dàn ý vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang
- Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng giang đạt điểm cao
- Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
- Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
Dàn ý vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ mới.
- Tràng giang (sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng) là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, Tràng giang mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
2. Phần tích khổ thơ
a. Khổ thơ 1
- Nhan đề và lời đề từ đã gợi lên phần nào cảm xúc chủ đạo của bài thơ: bâng khuâng trước vũ trụ mênh mông.
- Bài thơ mở đầu với dòng sông ngoại cảnh cũng là dòng sông tâm hồn, nỗi buồn trải ra cùng lớp lớp sóng. Khác với trường giang hùng vĩ, cuồn cuộn của Lý Bạch, Đỗ Phủ, tràng giang của Huy Cận lặng lờ (sóng gợn, thuyền xuôi mái), nhuốm nỗi chia li (thuyền về nước lại, sầu trăm ngả). Củi lạc cành khô lạc mấy dòng là hình ảnh đời thực, gửi gắm ưu tư của tác giả về thân phận con người.
b. Khổ thơ 2
– Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người (làng, chợ, bến) những cảnh hoang vắng, trơ trọi. Huy Cận đã học từ câu thơ dịch Chinh phụ ngâm (Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò), nhưng thêm một từ láy (Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu) khiến cảnh vật càng quạnh quẽ. Câu thơ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều nói đến âm thanh mà lại làm nổi bật cái vắng lặng.
(Lưu ý: Có thể chấp nhận 2 cách hiểu: có và không có tiếng vãn chợ chiều)
Nếu khổ 1 triển khai chiều rộng, chiều dài thì khổ 2 mở thêm vào chiều cao. Những cấu trúc đăng đối nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhấn mạnh ấn tượng không gian được mở ra ở cả ba chiều. Kết hợp độc đáo sâu chót vót với cái thăm thẳm của vũ trụ. Lời đề từ được nhắc lại ở đây, tô đậm nỗi cô liêu.
c. Khổ thơ 3
- Khổ thơ 3 thể hiện rõ bút pháp tả cảnh ngụ tình với những hình ảnh vừa gần gũi thân quen vừa giàu sức gợi. Những cảnh nghèo phiêu dạt giữa lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng phải chăng cũng là hình ảnh những kiếp người lênh đênh, vô định.
- Nhà thơ mong tìm một sự giao cảm, gắn bó nhưng trước mắt chỉ là không gian mênh mông, không một chuyến đò, không một cây cầu kết nối. Con người cảm thấy bơ vơ, cô độc giữa một cõi đời không chút niềm thân mật.
d. Khổ thơ 4
- Nỗi cô đơn càng thấm thía lúc hoàng hôn. Được gợi từ câu dịch thơ Đỗ Phủ (Mặt đất mây đùn cửa ải xa), Huy Cận đã sáng tạo nên hình ảnh một hoàng hôn hùng vĩ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Cánh chim quen thuộc trong thơ ca về hoàng hôn đến Huy Cận cũng mang nét mới lạ: cái hữu hình của cánh chim nhỏ nghiêng xuống làm hiện lên cái vô hình của bóng chiều trĩu nặng; cánh chim giữa trời rộng gợi “cái tôi” cô đơn, rợp ngợp trước vũ trụ, trước cuộc đời.
- Huy Cận đã liên tưởng đến Thôi Hiệu khi viết hai câu cuôi Khói sóng trên sông làm Thôi Hiệu buồn, còn Huy Cận thì không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà đã luôn da diết trong lòng tác giả.
3. Vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ
a. Đề tài, cảm hứng
- Tràng giang mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng.
- Tràng giang đồng thời thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lôi ra”.
b. Chất liệu thi ca
- Ở tràng giang, ta bắt gặp nhiều hình ảnh thân quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều…), nhiều hình ảnh, tứ thơ được đợi từ thơ cổ.
- Mặt khác, Tràng giang cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều, bèo dạt…)
c. Thể loại và bút pháp
- Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi hơn là tả những từ Hán việt cổ kính (tràng giang, cô liêu…).
- Song, Tràng giang lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi” trữ tình “buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…).
4. Kết luận
- Tràng giang của Huy Cận không chỉ là một bức phong cảnh mà còn là “một bài thơ về tâm hồn”. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, cuộc đời.
- Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, Tràng giang vừa mang phong vị thi ca cổ điển vừa hiện đại cũng là nét đặc trưng của phong cách Hụy Cận.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng giang đạt điểm cao
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của một cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới. Có thể coi nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ “Tràng giang” là ở sự kết hợp hài hoà hai phẩm chất : màu sắc cổ điển và chất hiện đại. Cùng thế hệ với Huy Cận, nhiều người hăng hái vận dụng cái mới trong thơ Tây phương nhằm cách tân về thi pháp, riêng tác giả thi phẩm “Lửa thiêng” thì thường lẳng lặng kết hợp và dung hoà giữa chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Pháp với cái hàm súc, sâu lắng của thơ Đường để tạo cho thơ mình một vẻ đẹp riêng.
Hướng cổ cách tân vốn là xu hướng của nền văn học hiện đại thời kì đầu. Khi các nhà văn nhà thơ chưa tiếp cận đầy đủ thi pháp sáng tác hiện đại, lực lượng sáng tác còn ít, tâm lí người đọc chưa kịp chuyển đổi thì vận dụng tính cổ điển bên cạnh hình thức hiện đại, mới mẻ nhằm đảm bảo tính phù hợp, dễ tiếp nhận là một việc làm cần thiết. Bởi thế, có thể thấy màu sắc cổ điển đậm đà, in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ độc đáo của một bài Thơ Mới.
Ở bài thơ “Tràng giang”, màu sắc cổ điển thể hiện ngay ở nha đề. Tuy viết cho người đọc ở những năm đầu thế kỷ 20 nhưng bài thơ mới lại có nhan đề bằng chữ Hán: “Tràng giang”. “Tràng” (một âm đọc khác của “trường”) gợi sự cổ kính. “Giang” là tên chung để chỉ các dòng sông. Hai chữ này gợi một không gian cổ kính, trang trọng, bát ngát như trong Đường thi, gợi nhớ câu thơ nổi tiếng của Lý Bạch: “Duy kiến trường giang thiên tế lưu” (Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng).
Màu sắc cổ điểm tiếp tục được khẳng định ở lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. “Trời rộng” gợi cảm giác về sự vô biên của vũ trụ. “Sông dài” tạo ấn tượng về cái vô cùng của không gian. “Trời rộng” và “sông dài” mở ra không gian ba chiều gợi cảm giác rợn ngợp của con người cô đơn, bé nhỏ trước cái mênh mang, bất tận của trời đất. Tâm trạng này từng được diễn tả một cách sâu sắc trong những vần thơ cô đọng, đầy ám ảnh của Trần Tử Ngang trong “Đăng U Châu đài ca”:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
(Người trước không thấy ai
Người sau thì chưa tới
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Một mình xót xa mà rơi lệ)
Tính cổ điển của bài thơ thể hiện đậm nét hơn ở tứ thơ sóng đôi. “Tràng giang” được cấu tứ trên nền cảm hứng không gian sóng đôi hết sức độc đáo. Có một dòng “Tràng giang” thuộc về thiên nhiên trong tư cách một không gian hữu hình và cũng có một dòng “Tràng giang” tâm hồn như một không gian vô hình trong tâm tưởng. Đây vốn là cấu tứ quen thuộc của Đường Thi.
Tiếp cận “Tràng giang” trong tư cách dòng sông thiên nhiên có thể thấy một điều đặc biệt: khổ thơ nào cũng có thông điệp về nước. Thông điệp trực tiếp là các từ : “nước”, “con nước”, “dòng”…Thông điệp gián tiếp là các từ : “sóng gợn”, “cồn nhỏ”, “bèo dạt”, “bờ xanh”, “bãi vàng”…
Tiếp cận “Tràng giang” với tư cách dòng sông cảm xúc trong tâm hồn lại phát hiện thêm một điều thú vị nữa: Cảnh nào cũng gợi buồn. Bài thơ vẽ ra một cảnh sóng nước buồn vô hạn (“buồn điệp điệp”). Những lời thơ miêu tả ngọn gió đầy tử khí: (đìu hiu) gợi nhớ đến câu: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” (Chinh Phụ Ngâm) hay bến sông cô đơn vắng vẻ (bến cô liêu). Lại có khi nước với nỗi buồn trải khắp không gian (sầu trăm ngả).
Nhà thơ Huy Cận đã vận dụng nghệ thuật đối cổ điển mang đậm dấu ấn Đường thi nhưng khá linh hoạt và phóng túng. Chẳng hạn:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hay:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Nghệ thuật tiểu đối thường thấy trong thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương được vận dụng triệt để nhưng đóng góp quan trọng hơn cả là nghệ thuật đối được sử dụng một cách triệt để bằng hai hệ thống hình ảnh mang tính tương phản giữa một bên là những sự vật nhỏ bé, gợi suy ngẫm về cái hữu hạn của kiếp người: “thuyền”, “củi”, “bến”, “bèo”, “cánh chim”… và một bên là những hình ảnh lớn lao, hùng tráng gợi liên tưởng về cái vô hạn của vũ trụ: “sông dài”, “trời rộng”, “lớp lớp mây cao”, “núi bạc”…
Nhà thơ sử dụng có hiệu quả hệ thống từ láy gợi âm hưởng cổ kính. Hệ thống từ láy trải khắp bài thơ: “Tràng giang”, “điệp điệp”, “song song”, “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, “mênh mông”, “lặng lẽ”, “lớp lớp”, “dợn dợn”. Những từ lấy giàu tính tạo hình, giúp cho lời thơ mềm mại, giàu cảm xúc.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng sáng tạo thi liệu của Đường Thi với rất nhiều hình ảnh và chất liệu quen thuộc. Đặc biệt câu kết mượn thẳng ý thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc Lâu”: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai – Tản Đà dịch). Điểm khác biệt ở hai tác giả là: Nỗi nhớ nhà của Thôi Hiệu được gợi từ hình ảnh “khói sóng” còn nỗi nhớ của Huy Cận không cần tác động của ngoại giới (Không khói hoàng hôn) vì đã là một yếu tố nội tâm thường trực. Đây cũng là nét khác biệt cơ bản của hai cách phô diễn cảm xúc tạo nên đặc điểm riêng của thi pháp thơ trung đại và thi pháp thơ hiện đại.
Dù bài thơ “Tràng giang” có in đậm màu sắc cổ điển trên một số phương diện như đã phân tích thì hiện đại vẫn là nét chính của thi phẩm này. Bởi cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn mênh mang, sâu lắng của cái tôi cô đơn trước vũ trụ được bộc lộ một cách trực tiếp qua một cách diễn đạt cô đọng và hàm súc. Tâm trạng của một cái tôi lãng mạn đó lại được thể hiện bằng bút pháp tả thực vừa phá vỡ qui tắc ước lệ truyền thống vừa đem đến một phong cách trữ tình mới.
Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nỗi buồn đó được thể hiện đa dạng với nhiều cung bậc và hết sức tinh tế. Ngay trong khổ thơ đầu, nỗi sầu muộn đã thấm vào cái nhìn cảnh vật. Tuy thuyền và nước “song song” nhưng “thuyền về” ngược hướng với “nước lại” gợi liên tưởng về một sự ngổn ngang trăm mối trong lòng. Và hình ảnh gây ấn tượng chính là hình ảnh củi trong câu “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Theo lời thổ lộ của chính tác giả, trong bản thảo, ông đã băn khoăn nhiều, cân nhắc rất kỹ trước khi chọn hình ảnh này. Quả nhiên, chi tiết giàu chất thực đó mang đến cho câu thơ một màu sắc hiện đại. Hình ảnh “củi” không chỉ tạo một ấn tượng mới mẻ mà còn gợi những liên tưởng và suy ngẫm về kiếp người lam lũ, tủi cực, lênh đênh…
Mạch cảm xúc trong khổ thơ tiếp theo diễn tả nỗi ám ảnh về cái hờ hững, mất liên lạc giữa con người và tạo vật cùng cảm giác trống trải của tâm hồn con người trước cái thế giới hoang vắng với hình ảnh bóng cây “lơ thơ” trên những cù lao nhỏ trơ trọi và ngọn gió hiu hắt buồn như thổi về từ nghìn năm trước. Cảm giác trống trải trước một không gian hoang sơ, vắng lặng càng được tô đậm khi tác giả sử dụng nghệ thuật diễn tả cái động để làm nổi bật cái tĩnh: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều…”. Câu thơ này từng gợi ra hai cách hiểu. Một, âm thanh vẳng tới mơ hồ như có như không của phiên chợ vãn ở làng xa khiến nhân vật trữ tình thấm thía hơn nỗi cô đơn trước một không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Hai, đây chỉ là một ý nghĩ bất chợt, gần như một ảo giác do những mong mỏi thầm kín trong thẳm sâu hồn người vào khi chiều xế trong thời điểm tâm hồn rơi vào một nỗi cô đơn mang tính muôn thuở.
Nhưng câu thơ “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” mới thực sự gây ấn tượng mạnh bởi cách sử dụng nghệ thuật tiểu đối, bởi lối dùng từ mới mẻ, táo bạo ( cách dùng hình dung từ sâu chót vót thay cho cách diễn đạt thông thường cao chót vót ) vừa mở ra chiều cao mênh mang đến thăm thẳm của bầu trời vừa diễn tả nỗi cô đơn của cái tôi trữ tình, đặc biệt là cảm giác rợn ngợp của con người hữu hạn trước một vũ trụ vô biên.
Nếu câu thơ vừa phân tích chủ yếu gợi ấn tượng rợn ngợp bởi nỗi cô đơn do chiều cao vô cùng của bầu trời đem lại thì câu thơ tiếp theo sử dụng nhịp 2/2/3 cùng hàm ý nhấn mạnh vào các tính từ miêu tả không gian: sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu… nghe tựa như một tiếng thở dài đầy bâng khuâng và sầu muộn của cái tôi trước tạo vật hững hờ. Nỗi sầu muộn đó sẽ còn tiếp tục gây ám ảnh trong khổ thơ tiếp theo khi cái tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như ngoảnh mặt làm ngơ với bao nỗi niềm cần chia sẻ của con người:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Trong khổ thơ có những câu hỏi không thể có câu trả lời. Những câu hỏi như để khơi sâu thêm nỗi buồn, cảm giác hẫng hụt và đặc biệt là tình cảnh bơ vơ của cái tôi trước một thế giới không còn là nơi nương tựa quen thuộc như muôn nghìn năm trước nữa.
Trong khổ thơ còn có sự diễn đạt mang tính tăng cấp nhấn vào các ngôn từ mang tính phủ định khiến người đọc nảy sinh những liên tưởng và so sánh. Từ “khách vắng teo” của Nguyễn Khuyến qua “đã vắng người sang những chuyến đò” của Xuân Diệu cho đến hàng loạt từ “không đò”, “không cầu”, “lặng lẽ” của Huy Cận là cả một hành trình “càng đi sâu càng thấy lạnh” (Hoài Thanh) của con người khi bước vào thế giới hiện đại.
Khổ thơ cuối diễn tả một sự đối lập cao độ giữa con người với vũ trụ. Cái mênh mông của không gian: “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” tương phản gay gắt với hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Rõ ràng, không còn là cánh chim mang tính nghệ thuật thuần tuý duy mĩ như trong Đường Thi: “Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng với trời xa một màu” – Vương Bột. Hay cảnh “Bạch lộ song song phi hạ điền” (Đôi cò trắng song song bay xuống cánh đồng – Thiên Trường vãn vọng – Trần Nhân Tông) nữa. Cánh chim ở đây chứa đựng cái tôi rợn ngợp trước hoàng hôn, gợi ám ảnh về cái hữu hạn của kiếp người trước cái vô hạn của tạo hoá.
Ở hai câu kết, Huy Cận đã sử dụng sáng tạo ý thơ Thôi Hiệu để bày tỏ tâm trạng của mình. Điểm khác biệt ở hai tác giả là : Nỗi nhớ nhà của Thôi Hiệu được gợi từ hình ảnh “khói sóng” còn nỗi nhớ của Huy Cận không cần tác động của ngoại giới ( không khói hoàng hôn) vì đã là một yếu tố nội tâm thường trực. Đây cũng là nét khác biệt cơ bản của hai cách phô diễn cảm xúc tạo nên đặc điểm riêng của thi pháp thơ trung đại và thi pháp thơ hiện đại.
Đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Đó cũng là nỗi buồn của các nhà thơ mới, nỗi buồn của cả một thế hệ lúc bấy giờ. Dường như theo họ cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Như Baudelaire đã từng có câu thơ nổi tiếng: “Em cứ đẹp, và em cứ buồn”. Cái buồn của Huy Cận trong bài thơ này, trước sau, vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn người đọc. Nhìn chung, nhu cầu tìm về một hình ảnh thân thương, quen thuộc sưởi ấm lòng người trong bối cảnh nỗi cô đơn đang ngập tràn tâm trạng như sắp dìm cái tôi trữ tình vào một nỗi buồn vừa mang tính muôn thuở vừa chưa từng trải qua bao giờ sẽ là một tất yếu. Đấy là lý do vì sao bài thơ kết thúc bởi hai câu: “Lòng quê dợn dợn vời con nước / Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” vừa như chịu ảnh hưởng từ hai câu thơ của nổi tiếng của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu” vừa như muốn đối lập với người xưa bằng lối bộc lộ cảm xúc trực tiếp theo phong cách của con người thời hiện đại.
Bài thơ “Tràng giang” đã kết hợp được thơ ca truyền thống, những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại trong thơ phương tây. Những hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, “củi một cành khô”, “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” mang tính chân thực của đời thường, không ước lệ. Và cũng có những hình ảnh mang vẻ đẹp tượng trưng. Sự kết hợp hài hoà hai yếu tố đó đã tạo nên nét đặc sắc không trộn lẫn của Huy Cận trong “Tràng giang” nói riêng và tập “Lửa thiêng” nói riêng trong phong trào Thơ mới: vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại.
Nhận định về bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận, có ý kiến cho rằng: đó là nỗi sầu vạn kỉ. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: đó là nỗi sầu của một con người giàu sức lực. Anh/chị hiểu những ý kiến trên như thế nào? Làm sáng tỏ những ý kiến đó qua việc phân tích thi phẩm.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
Bài làm mẫu 1
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào Thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời… vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng giang. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập Lửa thiêng, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, thương cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ Tràng giang là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai vầng ang đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ Tràng giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ Tràng giang mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Trước cảnh trời rộng, sông dài sa mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm bâng khuâng và nhớ. Từ láy bâng khuâng được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con sông dài, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộc sống lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên điệp điệp, song song ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cử cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng điệp điệp, nước song song ấy là một con thuyền xuôi mái, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng lờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng tràng giang dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách thuyền về nước lại, nghe sao đầy xót xa. Chính vì thể mà gợi nên trong lòng người nỗi sầu trăm ngả. Từ chỉ số nhiều trăm hô ứng cùng từ chỉ số mấy đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: ” Củi một cành khô lạc mấy dòng. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. Một gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, cành khô gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, Lạc mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên mấy dòng nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển tả cảnh ngụ tình thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà Thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện tại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói củi một cành khô thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ Tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy lơ thơ và đìu hiu được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Lơ thơ gợi sự ít ỏi, bé nhỏ đìu hiu lại gọi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh cồn nhỏ, gió thì đìu hiu, một khung cảnh lạnh lẽo tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi đâu đó, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi đâu như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là đâu có, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chồng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dõi trôi của sông:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nắng xuống, trời lên gợi sự chuyển động,mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. Sâu chót vót là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với sông dài, trời rộng, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: bến cô liêu.
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống còn người thì buồn tẻ, chán chường với vãn chợ chiều, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh và cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là hàng nối hàng. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là bờ xanh tiếp bãi vàng như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định.. không…không để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông, cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với mây cao đùn núi bạc thành lớp lớp đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ đùn, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kép bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không giang nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng cánh chim và bóng chiều, vốn là những hình tượng thẩm mĩ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Dợn dợn là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ vời con nước cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng cô đơn của lòng quê. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà Thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịnh vào sóng để mà buồn mà nhớ, Còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi tự nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại, vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như mây, sông, cánh chim, và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như sâu chót vót, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tấm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất Huy Cận, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Bài làm mẫu 2
Nhà phê bình Hoài Thanh từng phát biểu: “Buồn thương, sầu não là âm hưởng chính khiến “Lửa thiêng” như bản ngậm ngùi dài. Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau đời.” Trong đó, người đọc biết đến Huy Cận nhiều nhất qua bài “Tràng giang” trích trong tập thơ này. “Tràng giang” đã khắc họa thành công cái lăng kính sầu vạn cổ cùng hiện thực giàu sắc thái. Chính vì lẽ đó, bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã khắc họa thành công hai vẻ đẹp: cổ điển và hiện đại.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang có thể cho ta thấy được từ chính hoàn cảnh sáng tác và nhan đề bài thơ. Theo tác giả, đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: “Một chiều mùa thu năm 1939, tôi đi dạo trên bờ sông Cái bằng xe đạp, có đoạn dắt xe đi bộ thấy buổi chiều trên đê và sông đẹp quá: nắng chiều đã nhạt, mây đùn phía núi xe và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi, nửa xa vời, quạnh hiu”. Vì vậy, bức tranh thiên nhiên được khắc họa trong bài thơ này gần như đã trở thành cổ điển mà linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu, mênh mang, cô đơn bao trùm. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một nét buồn, gợi thêm một tâm sự đáu.
Tất cả những điều ấy cứ trở đi trở lại như sóng nước, vẫn là bát ngát mênh mang nhưng phủ trùm bởi hoang vắng và tàn tạ, lụi tắt, bơ vơ, nổi trôi, chia lìa, phiêu bạt, bềnh bồng…. Đây là nỗi buồn cô đơn đến rợn ngợp của con người cá nhân bé nhỏ trước không gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khát khao hoà hợp, cảm thông giữa người và người trong tình cảnh đất nước và tình thương yêu nhân loại. Thiên nhiên trước giờ là đề tài chung của thi nhân, là cảm hứng dạt dào bất tử. Nhưng rõ ràng, sự xuất hiện của con người, bóng dáng của cái tôi cá nhân là một nét mới – hoàn toàn đứt lìa với “cái ta” cổ kính trung đại để dấn thân vào khám phá những chiều kích nội tâm. Là nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, Huy Cận đã để lại những dấu ấn khó phai trên thi đàn, vừa tiếp nối, gìn giữ những nét cổ điển trong thơ xưa vừa thực hiện cuộc khai phá ngoạn mục trong hành trình thơ mới.
Nhan đề “Tràng giang” xuất phát từ sự biến đổi lại từ “trường giang”, hai âm Hán – Việt và vần “ang” đi liền với nhau làm cho con sông trong thơ bỗng trở nên dài rộng hơn, mệnh mang, rợn ngợp hơn trong tâm tưởng người đọc. Cùng với đó là lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Lời đề từ này được xem như cảm xúc chủ đạo của bài thơ, là nơi để người đọc đi vào và phân tích những giá trị của bài thơ.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ còn được gợi từ đề tài, cảm hứng sáng tác và chất liệu thi ca. Tràng giang đượm một nỗi sầu vạn cổ của con người bé nhỏ, hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn, vô cùng. Bài thơ chỉ vỏn vẹn bốn khổ và được mở đầu bằng màu sắc chia lìa:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô, lạc mấy dòng”
Ta thấy, nhà thơ sử dụng hàng loạt những thi liệu trong thơ Đường như sóng, thuyền, nước… Sự xuất hiện của củi khô ở câu thơ cuối cùng chính là một hình ảnh mới lạ, độc đáo, một nét đẹp đơn sơ và bình thường của văn học hiện đại. Tuy nhiên, bức tranh đẹp như thủy mặc ấy lại đượm nét buồn tái tê “chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên kéo dài triền miên”. Những từ láy “điệp điệp”, “song song” như xoáy sâu đặc tả nỗi buồn ấy. Cùng với đó là sự chia lìa, vĩnh quyết “thuyền về nước lại”, “lạc mấy dòng”. Trong những khổ thơ tiếp theo, nỗi buồn sầu chất ngất ấy càng phát ra âm thanh đìu hiu não nuột hơn nữa:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Thậm chí, chính tác giả cũng hai lần phủ định sự giao hòa, kết nối giữa con người và thiên nhiên, con người và con người, phủ định tín hiệu của sự sống để gợi nên cái tôi cô đơn rờn rợn bốn bề:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Cảm hứng đơn độc bao trùm cả bài thơ. Tạo vật cứ chảy trôi như nó vốn dĩ, cứ chia li như nó đã từng. Để rồi trong sự mênh mông ấy, con người lọt thỏm và nhỏ bé đến đáng thương. Con người như người lữ hành cô độc giữa không gian, thời gian vô thủy vô chung. Cất lên tiếng nói tâm tư chính là bộc bạch nỗi lòng sâu kín của thi nhân về tình yêu quê hương xứ sở:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Đối lập với cảnh tượng hùng vĩ của mây cao, núi bạc là hình ảnh cánh chim nhỏ bé chìm vào sự vô cùng vô tận của vũ trụ. Và lúc này đây, điểm nhìn thi nhân có sự thay đổi, nhà thơ không nhìn ngắm ngoại cảnh bao la rộng lớn nữa mà quay ngược hướng về lòng mình “lòng quê”. Hai chữ “dợn dợn” chính là sáng tác riêng của Huy Cận, là tâm trạng nôn nao, day dứt triền miên của một người đứng trên quê hương mà lại cảm thấy thiếu quê hương như các nhà thơ cùng thời. Ta từng bắt gặp nỗi nhớ quê da diết ấy trong tâm hồn của Thôi Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
Thể loại và bút pháp cũng là một điểm đặc biệt Huy Cận đã vận dụng để thể hiện vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ. “Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển với cách ngắt nhịp, gieo vần, bút pháp đối lập, bút pháp tả cảnh ngụ tình, mang tính chất gợi hơn là tả qua những từ Hán việt cổ kính (tràng giang, cô liêu…). Bên cạnh đó, “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi cá nhân” qua vận dụng thể thơ bảy chữ (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…).
Sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang của Huy Cận vô cùng hài hòa chớ không hề gượng ép. Chẳng hạn, với câu “củi một cành khô lạc mấy dòng” ta thấy, “một” đi với “mấy”, cứng (khô) đối với mềm (dòng sông) là quá quen thuộc, là cũ nhưng chất liệu “củi một cành khô” thì không còn cổ điển nữa! Bằng những cách như vậy, Huy Cận đã lặng lẽ góp phần biến đổi bộ mặt thơ xưa mà mượn cách nói của Hoài Thanh, ta thấy, Huy Cận vừa bước vào làng thơ đã nhanh chóng có một chỗ ngồi ổn định.
Tóm lại, bài thơ “Tràng giang” là kết tinh, là thành công tiêu biểu cho sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và lãng mạn. Qua đó, ta thấy được bức tranh không gian rộng lớn vô cùng vô tận cùng nỗi sầu “cảnh có vui đâu” khi “người buồn” tự muôn thuở:
“Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
Suốt một đời như núi đứng riêng tây”
Bài làm mẫu 3
Huy Cận là một nhà thơ tên tuổi trong nền thi ca nước nhà với nhiều tác phẩm tiêu biểu, có đóng góp rất nhiều trong phong trào thơ mới. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông. “Tràng Giang” trích trong tập “Lửa Thiêng” được viết trước cách mạng tháng Tám. Với bút pháp nghệ thuật đặc sắc, bài thơ là một bức tranh đẹp được hòa quyện giữa nét cổ điển và hiện đại.
Nét đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện ngay từ thi đề của bài thơ “Tràng Giang”. Hai chữ “Tràng Giang” mang tính cổ điển mà trang nhã, là từ Hán Việt, gợi cho ta đên những bài thơ Đường thi có màu sắc xưa cũ, cổ kính. Nhưng nếu các thi nhân xưa đến với thiên nhiên để tìm sự giao cảm thì nhà thơ hiện đại Huy Cận lại đứng trước “Tràng Giang” để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã trước kiếp người nhỏ bé cô đơn. Đó là một tâm hồn rất hiện đại mà qua đó ta có thể thấy được nét quyến rũ của bài thơ.
Với khổ thơ đầu tiên:
Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” của 2 câu thơ đầu đậm chất cổ điển của thơ Đường. Giữa cái bao la bát ngát của sóng, của nước là hình ảnh một “con thuyền xuôi mái”. Thuyền và nước thường đi đôi với nhau nhưng ở đây “thuyền về nước lại” nghe sao xót xa. Câu thơ cuối “Củi một cành khô lạc mấy dòng” cho ta thấy được sự cô đơn lẻ loi đến lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Nét đẹp cổ điển của khổ thơ được thể hiện qua ngòi bút đặc sắc của tác giả, chỉ bằng vài nét chấm phá đơn sơ đã gợi được lên hồn cốt của tạo vật.Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn thấy được nét đẹp hiện đại của khổ thơ, đó là hình ảnh độc đáo không ước lệ “củi một cành khô”, hình ảnh thâu tóm ý tưởng chủ đạo cả khổ thơ, hé mở tâm trạng nhân vật trữ tình cô đơn, lạc lõng.
Khổ thơ tiếp
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Từ láy được tác giả sử dụng dày đặc “lơ thơ” “đìu hiu”, “chót vót” cùng với việc sử dụng hình ảnh đối lập “nắng xuống – trời lên”, “sông dài- trời rộng” là thủ pháp nghệ thuật trong lối thơ cổ. Vẻ đẹp cổ điển còn hiện ra qua các thi liệu quen thuộc như sông, trời còn cuộc sống con người thì cô đơn, buồn bã. Cái mới mẻ ở đây là cách diễn đạt qua hình ảnh chuyển đổi cảm giác của tác giả khi mà “nắng xuống trời lên” lại “sâu chót vót”, gợi lên cho ta cái mở rộng về thời gian, không gian để rồi thấy rõ hơn cái nhỏ bé cô đơn của con người.
Ở khổ thơ thứ ba:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
“Bèo” là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người trôi nổi thường được sử dụng trong những bài thơ cổ điển. Ở đây, bèo không chỉ có một cánh mà “hàng nối hàng” rợn ngợp. Cảnh vật ở đây hiu quạnh đến vô cùng. Cụm kết cấu “không… không” nhấn mạnh điều đó. Giữa không gian mênh mông rợn ngợp giường như heo hắt không có sự sống, chỉ có “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện đặc sắc ở khổ thơ cuối:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” được tác giả lấy thi hứng từ tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Bút pháp gợi tả cùng từ láy “lớp lớp” cho thấy được hình ảnh sống động của núi mây. Ở đây tác giả vận dụng rất tài tình động từ “đùn” khiến cho từng lớp mây như đang chuyển động. Hình ảnh này rất độc đáo, mang vẻ đẹp hiện đại. Ở câu thơ sau, “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều” cũng là những hình ảnh quen thuộc của thơ ca cổ điển. Câu thơ tả không gian nhưng gửi được cả thời gian. Giữa khung cảnh đó là một tâm hồn rất hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
“Dợn dợn” là một từ láy độc đáo của Huy Cận mà trước đó chưa ai sử dụng. Kết hợp cùng với cụm từ “vời con nước” khiến cho “lòng quê” càng thêm hiu quanh. Ở câu thơ cuối tác giả lấy cảm hứng từ tứ thơ “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” của Thôi Hiệu. Nhưng ở đây tác giả không cần “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ đó luôn thường trực trong tâm khảm. Nét khác biệt đó làm nên vẻ đẹp hiện đại của câu thơ.
Ngoài ra bài thơ “Tràng Giang” mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thể hiện ở thể loại thơ và bút pháp mà tác giả sử dụng. Thể loại thơ ở đây là thơ 7 chữ với lối ngắt nhịp đăng đối nhuần nhuyễn. Song, “Tràng Giang” cũng rất mới qua những từ ngữ giãi bày cảm xúc cá nhân
“Tràng Giang” là một bức tranh về phong cảnh mà còn là một bản nhạc về tâm hồn. Nét thi vị của bài thơ là ở vẻ đẹp cổ điển và hiện đại luôn hòa quyện, sóng đôi. Nét đẹp của bài thơ sẽ mãi đi vào lòng người, để rồi qua vẻ đẹp đó ta thấy được một tấm lòng yêu nước thầm kín, một tài hoa rực sáng của thi ca.
Bài làm mẫu 4
Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là chủ soái dòng Tây, Nguyễn Bính là chủ soái dòng quê thì nhà thơ Huy Cận được coi là chủ soái dòng Đường. Sinh thời, một trong những gương mặt xuất sắc của phong trào thơ mới, còn được mệnh danh là “hồn thơ ảo não” ấy cũng đã tự nhận mình có ảnh hưởng không nhỏ của thơ ca cổ điển, nhất là thơ Đường. Bởi vậy sáng tác của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Bài thơ Tràng giang, ra đời vào năm 1939, in trong tập “Lửa thiêng” đã xuất sắc thể hiện một cái tôi đa sầu, đa cảm qua màu sắc nghệ thuật rất đặc trưng đó.
Cổ điển và hiện đại là sự kết hợp của hai màu sắc nghệ thuật vô cùng độc đáo trong sáng tác của những nhà thơ tài năng. Đối với nhà thơ Huy Cận sự kết hợp của hai màu sắc đó chính là yếu tố làm nên phong cách nghệ thuật của thơ ông. Bài thơ Tràng giang có sự kết hợp đầy sáng tạo giữa hai yếu tố ấy tạo nên một dấu ấn rất riêng để Huy Cận khẳng định cái tôi buồn bã, cô đơn trước cuộc đời qua một nguồn cảm hứng bất tận với không gian của vũ trụ bao la.
Chính nhà thơ Huy Cận từng tâm sự, ban đầu Tràng giang có dự định là một bài thơ Đường theo thể thất ngôn bát cú. Bởi cảm xúc của một chàng sinh viên buồn bã trước thời cuộc, nhớ nhà, nhớ quê hương da diết đã khiến ông bật thành những câu thơ thất ngôn mang âm hưởng Đường thi. Có lẽ bởi vậy mà ngay từ nhan đề cho tới lời đề từ và xuyên suốt cả bốn khổ thơ, màu sắc cổ điển trong bài đã hiển hiện như một mạch nguồn kết nối tạo nên cái dư vang cho cái điệu buồn thương, ảo não rất đặc trưng của hồn thơ Huy Cận.
Thật vậy, nét cổ điển của bài thơ được gợi lên ngay từ nhan đề “Tràng giang”. Nếu đặt là “Chiều trên sông” như ban đầu thì sẽ không có được điều đó. “Tràng giang” là một từ Hán Việt, có nghĩa là một con sông dài, với điệp vần “ang” vừa tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng vừa có âm hưởng ngân vang dài rộng hơn. Bởi vậy thi đề khiến độc giả cảm nhận như tên một bài thơ Đường nào đó. Thêm vào nữa là lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài – một câu thơ thất ngôn vẽ nên một khung cảnh cũng rất Đường thi. Đó là cảm xúc buồn bã, cô đơn của con người trước một không gian rộng lớn bát ngát của trời, của sông mà ta cũng hay bắt gặp trong thơ của một thi sĩ xưa nào đó. Màu sắc cổ điển ngay từ ban đầu đã dẫn dắt cảm xúc của nhân vật trữ tình, khơi dậy nguồn cảm hứng để vẽ nên một khung cảnh đẹp, mênh mông có khả năng chất chứa nỗi sầu nhân thế của nhà thơ.
Và cứ thế phong vị cổ điển của Tràng giang được tiếp tục khơi gợi từ việc nhà thơ sử dụng những chất liệu, hình ảnh, bút pháp miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu… trong bài thơ. Huy Cận đã vận dụng và sáng tạo nguồn thi liệu cổ để tạo nên sắc thái riêng trong tác phẩm này. Những hình ảnh như: tràng giang, sóng gợn, con thuyền,bến cô liêu, bèo trôi, áng mây, cánh chim, bóng hoàng hôn… không hề xa lạ trong thơ xưa. Trước hết nó gợi lên những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn nhưng vắng lặng, quạnh hiu. Chắc chắn, người yêu thơ cổ đã hơn một lần được cảm nhận khung cảnh quen thuộc như thế này:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Hay
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Và
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Chưa nói đến sóng gợn, thuyền trôi, bến cô liêu mà khung cảnh gió đìu hiu đã gợi cho chúng ta nhớ đến câu thơ: “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” trong Chinh phụ ngâm. Ngay cả hình ảnh lớp lớp mây cao đùn núi bạc cũng được khơi nguồn cảm hứng từ ý thơ trong bài Cảm xúc mùa thucủa nhà thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Còn hình ảnh bèo trôi quá quen thuộc trong thơ xưa thường gợi nên những thân phận trôi nổi, bấp bênh, vô định trước dòng đời. Ý nghĩa ấy trong bài thơ này cũng vẫn nguyên vẹn như vậy. Hay cuối bài thơ, nỗi nhớ nhà của thi nhân cũng được khơi gợi từ tứ thơ trong Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Dẫu không cần khói sóng trên sông nhưng ý vị nỗi niềm cũng bắt nguồn từ ý thơ của thi sĩ thời Đường. Điều đó có thể khẳng định, việc sử dụng những thi liệu cổ, hình ảnh trong thơ xưa đã làm nên sắc thái cổ điển rất riêng cho bài thơ này.
Và một yếu tố nữa làm nên chất cổ điển đặc trưng chính là bút pháp miêu tả. Từ nghệ thuật đối, nét chấm phá đến cái cách khơi gợi sự tĩnh lặng của cảnh vật trong bài thơ đều thuộc về âm hưởng của thơ xưa. Người đọc không ít lần thấy sự đối lập giữa những cái nhỏ bé, ít ỏi với không gian mênh mông, bất tận của sông, của trời. Ngay khổ thơ đầu tiên đã hiện lên một tràng giang rộng lớn, bất tận qua những sự vật nhỏ bé mà nhà thơ đã chạm tới như: những con sóng nhỏ lăn tăn, con thuyền buông trôi theo dòng nước, một cành củi khô. Con người bỗng dưng tìm thấy sự đồng điệu trong cảnh vật, cũng nhỏ bé, cô đơn nhưng nỗi buồn thì trải dài bất tận, lan tỏa khắp cả không gian. Sự đối ngược giữa cảnh vật với cảnh vật là sợi dây kết nối với nỗi lòng thi nhân. Đây chính là dư vị được khơi gợi từ thơ xưa mà nên.
Bên cạnh đó bút pháp chấm phá, rất đặc trưng của thơ Đường cũng được tác giả sử dụng để khắc họa cái rộng lớn vô biên của ngoại cảnh. Trước khi thấy được cảnh tượng: nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng nhà thơ đã kịp phác qua cái lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu và bến cô liêu. Hay ở cuối bài thơ, khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ của bức tranh bầu trời hoàng hôn chỉ được hiện lên qua vài nét vẽ mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa. Cái thần thái của cảnh vật chỉ nằm trong một vài nét phác thảo như thế và làm nổi bật lên một khung cảnh mây trời, sông nước mênh mang như mở rộng ra cả ba chiều vô cùng, vô tận.
Tràng giang càng rộng lớn, bát ngát lại càng quạnh quẽ, vắng lặng, đìu hiu. Một phần do cách miêu tả qua thủ pháp nhân hóa như: buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng, bến cô liêu, lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng… Các sự vật dường như không hề có mối liên hệ, gắn kết, chỉ để làm tô đậm thêm trạng thái lặng thinh đến nao lòng. Nhưng cũng bởi một phần do cách hạn chế ở mức tối đa về âm thanh, chuyển động của sự vật trong bài thơ. Nếu nói Tràng giang gần như tĩnh lặng vì không có một chút âm thanh nào rất đúng. Từ sóng đến thuyền, đến gió, đến mây, đến chim… đều êm ả, trầm buồn. Có xuất hiện tiếng làng xa vãn chợ chiều hay không vẫn chưa khẳng định được, vì nó đặt trong trạng thái nghi vấn Đâu? Bởi vậy có chăng là sự chuyển động đứt gãy, chia lìa của thuyền về nước lại, của nắng xuống trời lên sâu chót vót, là cái gấp gáp trong thời khắc hoàng hôn của lớp lớp mây cao đùn núi bạc, của chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa… Cách để khơi gợi một không gian rộng lớn như thế nhưng hoàn toàn trong tĩnh lặng là cách thơ xưa hay làm. Bởi những ý nghĩa tượng trưng từ cảnh vật sẽ làm thức dậy nỗi buồn, sự cô đơn của nhân vật trữ tình.
Và một trong những điểm đặc sắc trong cách mang phong vị cổ điển đến cho bài thơ còn nhờ cách dùng ngôn ngữ, thể thơ, cách ngắt nhịp. Bài thơ dễ gợi nên cái hồn cốt cổ xưa là bởi nhà thơ Huy Cận đã sử dụng và sáng tạo rất nhiều các từ láy. Có đến hơn mười từ láy trong mười sáu câu thơ: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót, mênh mông, lặng lẽ, lớp lớp,dợn dợn. Chưa nói đến tác dụng của chúng trong việc tạo sắc thái ý nghĩa trong bài thơ mà những từ láy đó đã tạo nên cảm xúc buồn buồn, sâu lắng theo kiểu bàng bạc của thơ xưa mà ta hay bắt gặp. Thể thơ thất ngôn và cách ngắt nhịp 4/3 rất quen thuộc đã thổi cái chất cổ điển ngay trong âm hưởng, nhịp điệu cho bài thơ.
Tuy nhiên thành công nổi bật của Tràng giang là tác phẩm đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại. Màu sắc hiện đại thực sự đã mang tới những ý nghĩa và giá trị sâu sắc cho bài thơ. Có thể thấy, Tràng giang sử dụng rất nhiều những thi liệu cổ, nhưng chúng ta cũng nhận ra rằng bài thơ cũng có rất nhiều những hình ảnh, âm thanh rất đỗi đời thường, không hề ước lệ. Những cành củi khô, tiếng vãn chợ chiều hay bèo dạt là những gì hiện đại rất khác với thơ xưa. Lần đầu tiên trong thơ xuất hiện một thứ đã chẳng còn nhựa sống nhưng lại có ý nghĩa khắc họa tâm sự của một cái hồn bơ vơ, lạc lõng, vô định trước cuộc đời giàu ý nghĩa như cành củi. Chính Huy Cận cũng đã nói ông rất cân nhắc khi sử dụng hình ảnh này, nhưng cuối cùng nó vừa đậm chất hiện đại mà còn đạt được hiệu quả cao trong việc thể hiện cảm xúc của cái tôi trữ tình. Hay cứ nghĩ bèo dạt là thi liệu quen thuộc, nhưng ở đây nhà thơ không sử dụng một cánh bèo mà là hàng nối hàng bèo trong sự vô định không biết về đâu. Huy Cận không gợi lên một thân phận, một kiếp người mà là cả một thế hệ con người trong thời đại ấy. Bao người nghệ sĩ như ông đang sống trôi nổi, lênh đênh giữa thời cuộc mất nước này? Cái chân thực, hiện đại được Huy Cận gửi gắm trong đó. Bởi vậy những hình ảnh như thế trước khi chuyển tải tâm sự của một cái tôi “bất hòa nhưng bất lực”, bản thân chúng đã được nhà thơ khơi gợi lên những vẻ đẹp rất bình dị, đời thường. Trong khung cảnh của tràng giang mênh mông, bát ngát, người ta vẫn thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước rất đỗi gần gũi, mến yêu. Cho nên cảm xúc nhớ nhà không cần phải trỗi dậy bởi khói sóng hoàng hôn, mà tự thân nó đã là một nỗi niềm thường trực, không bao giờ nguôi trong lòng thi nhân.
Nét hiện đại trong bài thơ còn được nhà thơ thể hiện qua những cảm xúc chân thật nhất của “một chiếc linh hồn nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu”. Cái tôi cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng trước dòng đời đã được nhà thơ thể hiện một cách trực tiếp, thẳng thắn. Ông đã tái hiện một khung cảnh rộng lớn, mênh mông thuộc về vũ trụ trên tràng giang để tìm chốn ẩn náu cho cái tôi của chính mình. Hơi thở hiện đại chính là từ cảm xúc bất lực của cả một thế hệ đương thời trong hoàn cảnh mất nước. Tất cả điều đó được gửi gắm vào những sự vật nhỏ bé trên dòng tràng giang mênh mông kia. Cái tôi ấy gửi sóng lòng mình theo nỗi buồn điệp điệp, theo mối sầu trăm ngả, theo cành củi khô lạc mấy dòng, theo chiếc cồn nhỏ gió đìu hiu, theo cái bến cô liêu, theo những hàng bèo nối tiếp nhau… mà không đủ sức đối chọi với trời rộng, sông dài. Nỗi buồn cứ từ ấy lan tỏa mênh mông, bận tận đến khi mãi chẳng có điểm dừng. Trái tim thi nhân bỗng rung lên một nỗi niềm cô đơn, lạc lõng. Mọi thứ trôi nổi, bấp bênh, vô định, thiếu vắng sự thân mật của sự sống con người. Nên cái tôi mới dợn dợn trào dâng một nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương khi đang đứng ngay trên quê hương. Tâm sự ấy chính là dấu ấn của cái tôi đương thời, của nỗi niềm yêu quê hương, đất nước thầm kín. Cái tôi đó không lẫn vào đâu được trong tinh thần chung của thơ mới.
Không thể phủ nhận, một phần giá trị rất lớn của Tràng giang chính là ở bút pháp nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại. Phong cách nghệ thuật đặc trưng này của Huy Cận được thể hiện trong bài Tràng giang nói riêng và nhiều bài thơ khác của ông trước cách mạng nói chung, thực sự góp phần làm nên sự phong phú, sáng tạo và độc đáo của phong trào thơ mới. Huy Cận không chỉ khiến chúng ta nhớ là một “hồn thơ ảo não” mà còn là nhà thơ của phong cách nghệ thuật cổ điển và hiện đại này.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng giang
Bài làm mẫu 1
“Tràng Giang” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939, in trong tập Lửa Thiêng. Cảm xúc thơ được khơi gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước… Với bút pháp nghệ thuật đặc sắc, tác giả đã vẽ lên một bức tranh thơ mang vẻ đẹp hòa quyện giữ cổ điển và hiện đại, đồng thời bộc lộ cái tôi cô đơn, cái tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà tha thiết.
Tựa đề của bài “Tràng Giang” xuất phát từ nghĩa Hán-Việt. “Tràng” là dài, “Giang” là sông, kết hợp lại “Tràng Giang” mang nghĩa là “Sông Dài”. Nhưng tại sao nhà thơ lại không đặt nhan đề của bài là “Sông Dài” mà lại lấy là “Tràng Giang”. Bởi lẽ “Tràng Giang” mang một sắc thái cổ kính, trang nhã, vần “ang” gợi nên sự mênh mang, bát ngát của sóng nước, còn là nỗi niềm của nhà thơ cũng mênh mang, vô định. Hai từ “Tràng Giang” như cho ta một nét buồn man mác, mang màu sắc cổ điển. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã toát lên không chỉ là cảnh mà còn là tình. Cảnh “trời rộng sông dài” còn tình người “bâng khuâng”. Bên cạnh đó, câu đề từ cũng gợi ra nét nhạc chủ âm cho bài thơ. Nét đẹp cổ điển của Tràng giang hiện lên qua những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại mang nỗi buồn da diết: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Một hình ảnh đẹp đẽ của sóng gợn những từ ngữ “buồn điệp điệp” ở cuối câu thơ đã làm cho ta một cảm nhận về nỗi buồn dạt dào. Hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” vẽ lên vẻ đẹp thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ, nhưng cũng không làm trôi đi nỗi sầu. Câu thơ cuối bài: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường, được nhà thơ Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Qua đó nói lên nỗi sầu xa xứ, nỗi buồn đau trăn trở và thêm da diết, ý thơ thêm sâu, tình thơ thêm lặng.
Cùng với nét đẹp cổ điển, vẻ đẹp hiện đại trong Tràng Giang cũng được nhà thơ thể hiện rất đặc sắc với bút pháp nghệ thuật điêu luyện. Những hình ảnh thơ rất bình dị, rất đời thường tưởng chừng như vô nghĩa nhưng lại rất có ý nghĩa: “ Con thuyền xuôi mái nước song song” đã tô đậm sự lẻ loi, đồng thời là sự chia li, là sự ám ảnh về những kiếp người lênh đênh, lạc loài: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh thơ: “Lơ thơ cồn nhỏ – Đâu tiếng làng xa – nắng xuống trời lên – Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”, là không gian được mở rộng và đẩy cao hơn, cảnh vật càng thêm vắng lặng, nhà thơ lắng nghe âm thanh cuộc sống nhưng chỉ cảm nhận được đây chính là tiếng dội hoang vắng của cõi lòng. Tác giả khẳng định sự có mặt của con người nhưng chỉ là để phủ nhận nó, chỉ còn thiên nhiên đẹp, cô quạnh. Hình ảnh: “bèo dạt về đâu – Mênh mông không một chuyến đò ngang” đã khắc sâu nỗi buồn về sự li tán, tan tác. “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” biểu tượng cho cái tôi nhỏ nhoi, cô độc trước cuộc đời ảm đạm, không có niềm vui. Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ với tất cả những hình ảnh dường như vô nghĩa lí ấy đã tạo cho “Tràng Giang” một cái tính không bao giờ tắt trong bức tranh thiên nhiên mịt mờ, ảm đạm, đẹp nhưng quá đỗi buồn tẻ.
Sự kết hợp của hai vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã tạo nên một “Tràng Giang” cao đẹp, rộng lớn, mênh mang, hùng vĩ. Qua đó, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên hoang sơ nhưng thấm đượm tình người và lòng yêu nước thầm lặng, da diết..
Bài làm mẫu 2
Trong phong trào Thơ Mới ta không chỉ nhắc đến Xuân Diệu với những vần thơ tình đầy lãng mạn mà còn phải nhắc đến một Huy Cận, nhà thơ của vạn lí sầu. Nếu như phong trào Thơ Mới ai ai cũng hăng hái cách tân, đổi mới, Huy Cận lại tìm cho mình một hướng đi riêng, ông vẫn lặng lẽ kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại trong các bài thơ của mình. Tràng giang chính là một bài thơ xuất sắc nhất thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa hai nét tưởng đối lập nhau ấy là cổ điển và hiện đại.
Chất cổ điển ở đây có thể hiểu là sự tiếp nối những phẩm chất, những nét vốn có của văn học trung đại. Còn chất hiện đại được hiểu là sự tiếp thu những nét mới mẻ trong văn học phương Tây. Dung hòa hai yếu tố này trong một tác phẩm không phải là điều dễ dàng.
Trước hết về chất cổ điển trong bài thơ Tràng giang, tinh thần trung của tập thơ Lửa thiêng không phải là sự chối bỏ quá khứ, với tập thơ này Huy Cận chủ trương có sự kết hợp, vận dụng những tinh hoa của văn học truyền thống vào các bài thơ của mình. Bởi vậy, không chỉ Tràng giang mà tất cả các bài thơ trong tập thơ này của ông đều có màu sắc của văn học cổ điển. Với tác phẩm này, nét cổ điển đầu tiên chính là ở đề tài, cảm hứng mà bài thơ đề cập đến. Đề tài đứng trước sông rộng, trời cao nhận thấy sự nhỏ bé, hữu hạn của con người là đề tài thường thấy trong văn học trung đại. Chất cổ điển đó thể hiện ở ngay nhan đề bài thơ, tuy là tác phẩm được sáng tác trong phong trào thơ mới nhưng lại có một cái tên rất cổ điển: Tràng giang. Tràng vốn là một âm đọc khác của trường – dài, còn giang là từ để chỉ chung tên của các dòng sông. Ngay từ nhan đề người đọc đã nhận thấy không gian cổ kính của bài thơ, với không gian mênh mông, bát ngát có phần rợn ngợp trải dài ra trước mắt. Kết hợp với nhan đề, đề từ của tác phẩm cũng đậm dấu ấn cổ điển:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
“Trời rộng sông dài” gợi lên cái mênh mông, vô tận của vũ trụ. Trong không gian đó con người trở nên cô đơn, bé nhỏ, đầy ám ảnh. Đây là tâm trạng của rất nhiều thi nhân trước đây, có thể kể đến như Trần Tử Ngang:
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Đọc thương nhiên nhi thế hạ”.
Dường như trước sự mênh mông, vô cùng của vũ trụ con người đều chợt thấy mình thật đơn độc, nhỏ bé bởi vậy mà nỗi sầu muộn càng thể hiện rõ nét hơn. Huy Cận cũng không thoát khỏi tâm trạng chung đó, từ láy “bâng khuâng” đã nói lên tâm trạng u buồn, lạc lõng của nhân vật trữ tình trước mênh mông sóng nước.
Chất cổ điển trong Tràng giang còn được biểu hiện qua hệ thống thi liệu mà Huy Cận sử dụng. Hàng loạt thi liệu cổ được sử dụng trong bài thơ: bến cô liêu, thuyền, dòng sông, cánh bèo, cánh chim là những hình ảnh thường thấy trong thơ cổ như: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan), “Cô chu thôi lạp ông/ Độc điếu hàng giang tuyết” (Liễu Tông Nguyên)… Mọi sự vật trong thơ ông đều trong trạng thái tàn lụi, héo úa, tan tác chia lìa: bèo hàng nối hàng không có một chút liên hệ với nhau, những cảnh bèo phiêu dạt cũng như chính số phận lênh đênh của con người trong xã hội đó; đò qua sông không có lấy một chuyến, bến cô liêu, quạnh quẽ,… Không gian hoang vu, vắng lặng, dù đã cố gắng tìm kiếm hơi thở của sự sống nhưng có lẽ Huy Cận đã hoàn toàn thất bại, chỉ có “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh những đám mây trắng, cánh chim cuối bài thơ: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, cũng là một hình ảnh phổ biến của văn học cổ như trong câu thơ của Vương Bột: “Chiếc cò bay với ráng pha/ Sông xanh cùng với trời xa một màu”. Ở đây Huy Cận đã vận dụng linh hoạt bút pháp chấm phá, chỉ một nét chấm nhỏ đã vẽ ra không gian mênh mông, rộng lớn với “lớp lớp” núi chồng lên nhau, chẳng khác nào những đám mây trong thơ Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Không gian được mở rộng thêm ở chiều cao, và trong không gian ấy cánh chim hay cũng chính con người trở nên bé nhỏ đến đáng thương. Bóng chiều phải chăng quá nặng đã làm cánh chim phải sa xuống, cánh chim bé nhỏ, đáng thương đến tội nghiệp. Đặc biệt trong câu thơ cuối: “Dòng sông dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, Huy Cận đã tiếp thu thi liệu của văn học Trung Quốc: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Để nói lên nỗi cô đơn, nỗi nhớ quê hương tha thiết, khắc khoải của bản thân trong khoảnh khắc ngày tàn.
Nghệ thuật đối cũng là bút pháp phổ biến trong văn học cổ. Trong văn bản Huy Cận sử dụng hàng loạt hình ảnh đối với sự kết hợp hết sức linh hoạt, uyển chuyển: sóng gợn đối với thuyền, nắng xuống đối với trời lên, sông dài đối với trời rộng,… tất cả hình ảnh đối lập tương phản đó đã thể hiện được cái mênh mông, bao la của vũ trụ và sự nhỏ bé, hữu hạn của con người. Ngoài ra, hệ thống từ láy cũng góp phần tạo nên âm hưởng cổ điển cho văn bản. Từ láy được Huy Cận sử dụng từ đầu đến cuối bài thơ: lặng lẽ, mênh mông, chót vót, lớp lớp,… đã làm rõ nét hơn dấu ấn đường thi cho tác phẩm.
Mặc dù, tiếp thu tinh hoa của văn học cổ điển nhưng Tràng giang vẫn là bài thơ mang đậm dấu ấn hiện đại. Tính hiện đại đó được đan xen, thể hiện ngay trong cái cổ điển của bài thơ. Dù đề tài cảm hứng là nỗi sầu nhân thế khi đứng trước thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, nhưng không chỉ dừng lại ở nỗi buồn chung mà đối với Huy Cận đó còn là nỗi buồn rất riêng, nỗi buồn cá nhân khi phải sống trong thời điểm đất nước bị mất chủ quyền, nhân dân sống trong cảnh nô lệ, xiềng xích.
Chất liệu trong bài thơ cũng có sự vận dụng tài tình bút pháp hiện đại với những hình ảnh sáng tạo hết sức chân thực, đời thường:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh củi khô, chợ chiều, bờ xanh bãi vàng là hiện thực đời sống hết sức đời thường, ở đây không hề có bút pháp ước lệ, không hề có nét chấm phá mẫu mực của đường thi mà tất cả là “hiện thực sống sít” của cuộc sống. Có lẽ lần đầu tiên trong văn học, hình ảnh “củi” xuất hiện trong thơ ca, nó là một điểm rất mới, rất hiện thực trong thơ Huy Cận. Từ “củi” được đảo lên đầu cầu nhấn mạnh vào sự vô giá trị của nó, không chỉ vậy nó còn là một cành củi khô không còn sự sống. “Lạc mấy dòng” gợi nên cái chơ vơ, bất định, vô phương hướng không biết đi đâu về đâu. Nó vừa là số phận của con người Việt Nam, vừa là thân phận bơ vơ của cái tôi Thơ Mới lạc lõng trước cuộc đời. Một bức tranh xơ xác, tiêu điều, là hiện thực cuộc sống u ám, ảm đạm của chính người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Đồng thời hình ảnh đó cũng gợi lên một quê hương thật gần gũi và quen thuộc đối với mỗi con người Việt Nam.
Trong sự cô đơn đến tột cùng, Huy Cận tìm kiếm một hơi thở, một âm thanh của sự sống, nhưng chỉ nhận lại: “Đâu tiếng là xa vãn chợ chiều”. Là âm thanh nhỏ, vẳng lại khiến người nghe không thể xác định được rõ âm thanh đến từ đâu, âm thanh tưởng làm cho bức tranh tâm trạng đỡ quạnh hiu buồn bã, thì nay lại càng sầu muộn hơn vị sự quạnh quẽ, vắng lặng đến khôn cùng của không gian. Trong hai câu thơ cuối mặc dù ảnh hưởng từ câu thơ của Thôi Hiệu, nhưng cảm xúc của nhân vật không bị ẩn đi, mà được bộc lộ một cách trực tiếp: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Ngoài ra, những kết hợp từ mới lạ như: buồn điệp điệp, sâu chót vót đã tăng tính chất hiện đại cho bài thơ. Từ “buồn” kết hợp với từ láy “điệp điệp” khiến cho nỗi buồn mênh mông, dàn trải và kéo dài ra mãi. Từ sâu chót vót cũng là một sáng tạo từ đặc biệt, chót vót vốn chỉ dùng để chỉ độ cao, nhưng lại được Huy Cận kết hợp với từ sâu, khiến cho câu thơ mở rộng ra các chiều kích khác nhau, nhấn mạnh hơn nữa sự mênh mông của vũ trụ.
Cuối cùng tính hiện đại được thể hiện trong thể thơ. Huy Cận sử dụng thể thất ngôn trường thiên, nhưng ở đây được chia khổ rõ ràng, khác với thơ cổ, thơ thất ngôn trường thiên không chia khổ. Và con người xuất hiện trong tác phẩm không bị chìm khuất trước thiên nhiên mà vẫn mạnh mẽ thể hiện, bộc lộ trực tiếp cái tôi, tâm tư tình cảm của chính mình.
Tràng giang là bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất đường thi cổ điển và chất hiện đại của phong trào Thơ Mới. Đây không phải “kiểu bình cũ rượu mới” mà là sự kế thừa và tiếp thu hết sức tinh tế của ông. Với bài thơ này ta thấy được một Huy Cận với vốn hiểu biết uyên thâm, nội lực dồi dào. Đằng sau những vần thơ ấy còn là lòng yêu nước thâm trầm mà sâu sắc.
……………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu hay nhất
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài Tràng giang 2 Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 11 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.