Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu Dàn ý & 9 bài văn mẫu lớp 11 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu tuyển chọn dàn ý chi tiết kèm theo 9 mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 11 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá bài thơ ngày một tốt hơn.
TOP 9 mẫu phân tích bài thơ Chạy giặc cực chất dưới đây gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình, giúp các bạn học môn Ngữ văn dễ dàng và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Đồng thời qua đó các bạn hiểu được chân thực thời kì đau thương của đất nước, thể hiện ngọn lửa của lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ.
Dàn ý phân tích bài thơ Chạy giặc
I. Mở bài:
– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác: Năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài Chạy giặc.
– Dẫn đề (ghi lại bài thơ).
– Chuyển mạch: phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
II. Thân bài:
1. Hai câu đề:
– Từ chính xác, gợi tả, hình ảnh thực, sinh động: tan chợ, vừa, tiếng súng Tây, cờ thế, phút sa tay.
– Tiếng súng của giặc Pháp đột ngột nổ vang, phá tan cuộc sống yên lành của nhân dân ta và đẩy nước nhà đến chỗ nguy nan, thất bại hoàn toàn.
– Cảm xúc mở đầu bài thơ: bàng hoàng, tuyệt vọng.
2. Hai câu thực:
– Biện pháp ẩn dụ, đảo ngữ, những trạng từ gợi hình ảnh loạn li, tan tác của nhân dân ta: lơ xơ, dáo dác.
– Cách ngắt nhịp chẵn – lẻ của thơ Đường luật thể hiện lời than thở xót xa:
Bỏ nhà / lũ trẻ / lơ xơ chạy,
Mất ổ / đàn chim / dáo dác bay.
– Nỗi khổ của nhân dân ta trong cảnh chạy giặc.
3. Hai câu luận:
– Biện pháp đảo ngữ được tiếp tục sử dụng, hình ảnh gợi tả: quê hương thân yêu Bến Nghé, Đồng Nai, bị giặc thiêu huỷ, cướp bóc, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây.
– Sự tố cáo tội ác của giặc vừa cụ thể vừa khái quát bằng giọng thơ u uất, căm hờn.
– Tội ác dã man của giặc xâm lược.
4. Hai câu kết:
– Ngôn ngữ châm biếm sắc cạnh (rày đâu vắng, nỡ để dân đen), than oán triều đình nhà Nguyễn sợ giặc, bỏ mặc dân tình khổ ải.
– Nỗi cảm khái trước cảnh điêu linh của nhân dân.
III. Kết luận:
– Giá trị hiện thực: tái hiện cảnh chạy giặc của người dân trong những ngày thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ.
– Giá trị tư tưởng, tình cảm: biểu lộ lòng yêu nước, thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc xâm lược bạo tàn.
Phân tích Chạy giặc hay nhất – Mẫu 1
Trong vườn hoa không phải tất cả những loài hoa đều có thể nở rộ, khoe sắc thắm và trong văn chương cũng vậy, không phải tác phẩm nào cũng có thể trường tồn cùng thời gian. Thế nhưng, Nguyễn Đình Chiểu – một ngôi sao sáng của dân tộc đã thổi hồn vào đứa con “Chạy giặc” của mình để nó trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu của dòng thơ yêu nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Chúng ta từng biết đến Nguyễn Đình Chiểu với nhiều tập truyện thơ đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như “Lục Vân Tiên”, “Chúng tử tế mẫu văn”,… Đặc biệt, vào thời khắc năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng mở đầu cho cuộc xâm lược nước ta với những thủ đoạn vô cùng dã man và tàn bạo khiến lòng căm thù giặc của nhà thơ ngày càng dâng cao.
Bằng ngòi bút điêu luyện, nhà thơ đã miêu tả hiện thực đất nước đầy đau thương trong buổi đầu bị xâm lược. Đó là khi giặc Pháp tấn công vào thành Gia Định lúc “tan chợ” ở hai câu đề:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.”
Cảnh họp chợ báo hiệu một cuộc sống yên bình, ấm no của con người, nay chợ đã tan, “tiếng súng Tây” đã làm xáo trộn cuộc sống thường nhật của người dân. Tiếng súng bất ngờ ấy đã làm cảnh tượng khu chợ trở nên tan tác, thê lương. Bằng biện pháp ẩn dụ nhà thơ gọi tiếng súng của giặc Pháp là “tiếng súng Tây” để lên án gay gắt và thể hiện một thái độ căm phẫn với những hành động xâm lăng của chúng. Thái độ căm thù giặc đó còn được thể hiện trong bài “Than đạo” của Nguyễn Đình Chiểu:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
“Tiếng súng Tây” bất ngờ nổ lên khiến mọi người đều chạy hoảng loạn. Đáng lẽ ra, sau giây phút họp chợ là giây phút mà nhà nhà vui vẻ, đám trẻ con háo hức vì được bà hay được mẹ mua quà vặt. Cho dù đó là những thứ nhỏ bé, dân dã của làng quê như mấy viên kẹo bột, kẹo lạc hay những bộ quần áo mới thì tất cả đều khiến lũ trẻ mong chờ. Cả gia đình sẽ quây quần bên nhau để chế biến con cá vừa mới mua ở chợ hay kể về một người thân thích lâu không gặp nay bỗng gặp lại trong phiên chợ đó. Những khoảnh khắc ấy thật yên bình và hạnh phúc biết bao. Vậy mà tiếng súng lại vang lên phá tan đi những mái nhà yên ấm, những hạnh phúc bình dị đó. Có ai không đau lòng, không xót xa trước cảnh tượng ấy?
Nhà thơ đã so sánh thế nước như “một bàn cờ thế phút sa tay” để nói lên sự thất thủ của quân triều đình chỉ trong chớp nhoáng khiến cho vận nước rơi vào tay giặc. Đằng sau mỗi ý thơ đều ẩn chứa một tâm trạng đầy bất an và lo lắng của nhà thơ về vận nước lúc bấy giờ. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cũng là lúc nhân dân ta bước vào thời kì nô lệ, họ luôn phải sống trong lầm than, khổ cực dưới ách áp bức của thực dân.
Nhà thơ đã tái hiện lại cảnh tượng con người chạy hoảng loạn đầy xót xa ở hai câu thực:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”.
Các từ ngữ: “Bỏ nhà”, “lơ xơ chạy”, “mất ổ”, “dáo dác bay” đã đặc tả sự tan nát, hoang sơ đầy thương cảm khi lũ giặc xả súng tấn công tổ quốc. Nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh điển hình, lấy “lũ trẻ” để đại diện cho sự sống con người, lấy “đàn chim” để đại diện cho thế giới tự nhiên. Hai hình ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nỗi đau thương của dân lành khi cả những đứa trẻ cũng phải chạy giặc, bầy chim cũng phải rời tổ để tìm chỗ ẩn náu cho mình. Nghệ thuật đảo ngữ đã lên án tội ác của giặc khiến cho những đứa trẻ cũng phải toán loạn chạy tìm nơi ẩn náu, bầy chim trên kia mất ổ cũng phải bay đi nơi khác. Các từ láy “lơ xơ”, “dáo dác” có tính chất tạo hình cao giúp bạn đọc như được trở lại cùng người dân “chạy giặc” lúc bấy giờ.
Tác giả đã phác họa bức tranh ấy không chỉ ở những vùng quê, những khu chợ mà còn ở cả chốn đô thị sầm uất nay cũng trở nên tan tác ở hai câu luận:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Chúng ta biết đến Bến Nghé là nơi các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa diễn ra sầm uất với các tàu bè tấp nập khoảng hai trăm năm về trước, còn Đồng Nai là một trong những vựa lúa lớn của miền Nam. Thế nhưng chỉ trong nháy mắt đã bị giặc Pháp cướp bóc, phá tan hoang đến mức nhanh như “bọt nước”. Sự càn quét của giặc Pháp như một cơn lũ, chúng cuốn trôi đi tất cả, cướp đi biết bao sinh mạng, tài sản của nhân dân. Chúng đốt những mái ấm của nhân dân ta khiến cho lửa khói dâng cao ngút trời bao phủ cả khoảng không rộng lớn. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật so sánh độc đáo “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây” để lột tả bộ mặt tàn ác của quân xâm lăng. Sức tàn phá của chiến tranh thật ghê gớm. Chiến tranh không chỉ đảo lộn cuộc sống thường ngày mà chiến tranh còn làm mất mát bao của cải, tài sản của nhân dân, đẩy dân lành vào cảnh điêu đứng. Trước thảm cảnh đó, không ai có thể ngăn được sự xót xa, đau đớn dành cho hoàn cảnh của chính mình và dân tộc.
Tội ác quân giặc làm sao kể xiết, nhà thơ không khỏi lo lắng, đau xót trước cảnh nước nhà rơi vào tình trạng bi thương, thê thảm. Điều đó được thể hiện rõ ở hai câu kết:
“Hồi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nợ này?”
Câu hỏi tu từ ở cuối bài đã cho chúng ta thấy tấm lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết, một dòng máu nóng đang chảy trôi trong tâm hồn nhà thơ, đó chính là tiếng lòng quặn thắt trước thực tại đầy đau xót của nhà thơ, đó cũng là sự thất vọng sâu sắc về phía triều đình. Từ đó ta cảm nhận được một trái tim đang rực cháy tình yêu quê hương, đất nước, một tấm lòng nhân hậu đầy thương cảm khi chứng kiến cảnh “dân đen” phải chịu cảnh lầm than. Những “trang dẹp loạn”, những anh hùng, vua quan nhà Nguyễn đi đâu vắng lại để cho dân đen gồng mình chịu nạn? Những con người sống bằng mồ hôi, công sức, xương máu của nhân dân lại bỏ mặc nhân dân khi họ lâm vào khốn khó. Triều đình ấy đã không đứng lên bảo vệ nhân dân, dẹp giặc ngoại xâm mà lại trở nên hèn nhát, bạc nhược.
Bài thơ “Chạy giặc” đã tái hiện chân thực thời kì đau thương của đất nước, thể hiện ngọn lửa của lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Nguyễn Đình Chiểu tuy không trực tiếp chiến đấu với quân địch trên chiến trường nhưng ngòi bút của ông lại có tính chiến đấu mạnh mẽ. Ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án tội ác của giặc, thể hiện chí căm thù giặc đến ngút trời đồng thời thổi hồn vào đó một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Dưới ngòi bút của nhà thơ, “Chạy giặc” thật xứng đáng là áng văn yêu nước trường tồn mãi mãi cùng thời gian.
Phân tích bài thơ Chạy giặc – Mẫu 2
Bài thơ “Chạy giặc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng. Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Đất nước rơi vào thảm họa – Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc” bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật ghi lại sự kiện bi thảm này.
Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc “tan chợ”:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. “Một bàn cờ thế” là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt.
Ba tiếng “phút sa tay” trong câu thơ “Một bàn cờ thế phút sa tay” nói lên sự thất thủ của quân Triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ được vận dụng sắc sảo: Vị ngữ “bỏ nhà” và “mất ổ được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ, đàn chim dáo dác bay”
Nếu viết “Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy” và “Đàn chim mất ổ dáo dác bay” thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn gì nữa! từ láy “lơ xơ” và “dáo dác” gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc, điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: “Cửa tiền Bến Nghé tan bọt nước” và “Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây”, mà viết:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lý bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ 19 vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền thế mà đã bị giặc Pháp cướp phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch ‘’tan bọt nước”. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút “nhuốm màu mây”. Hai hình ảnh so sánh “Tan bọt nước” và “nhuốm màu mây” là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội ác giặc Pháp xâm lược. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc bài thơ “Chạy giặc” đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước”. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiếu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:
“Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”
(Núi Đôi – Vũ Cao)
“Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây”
(Quê mẹ -Tố Hữu)
Trong hơn một thế kỷ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại hai câu kết bài “Chạy giặc”, ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Trang dẹp loạn” cũng là trang anh hùng hào kiệt. “Rày đâu vắng”: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than.Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc! “Chạy giặc” là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỷ 19.
Bài thơ “Chạy giặc” được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.
“Chạy giặc” là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc” sống dậy và hướng tới chúng ta khát vọng độc lập, tự do”.
Phân tích Chạy giặc – Mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 19. Mắt bị mù lòa giữa thời trai trẻ, con đường, công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không chịu khoanh tay trước những bất hạnh cay đắng. Ông đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc săn sóc sức khỏe của nhân dân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng lẫy, trở thành ngôi sao sáng trong nền văn nghệ Việt Nam cuối thế kỉ 19.
Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như truyện “Lục Vân Tiên”, truyện “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” … Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như “Chạy giặc”, “Xúc cảnh”, “Văn tế Trương Công Định”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, v.v…
Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiến khẳng định: “Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…”. Nếu các truyện thơ “Lục Vân Tiên”, “ Ngư Tiều y thuật vấn đáp”…. sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp thì những bài văn tế, những bài thơ như “Chạy giặc” đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước…
Thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu “ca ngợi những người anh hùng, suốt đời tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả, thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.” (Phạm Văn Đồng). Khi Tổ quốc bị xâm lăng “súng giặc đất rền”, những người áo vải chân đất “dân ấp dân lân” đã quật khởi đứng lên đánh giặc với ý chí căm thù sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”
Họ đánh giặc là để bảo vệ “tấc đất ngọn rau”, để giữ lấy “bát cơm manh áo ở đời” Vì thế, chỉ một lưỡi dao phay, một gậy tầm vông cũng ào ào xung trận. Tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang lẫm liệt:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đất nước quê hương bị giặc Pháp giày xéo, tuy bị mù lòa, ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng tham gia đánh giặc. Ông gọi lòng trung nghĩa của mình là “lòng đạo” chung thủy, sắt son, sáng ngời:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
Có thể nói, những câu văn, vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước… Vì thế mà niềm mơ ước của ông vẫn là niềm mơ ước của hàng triệu con người Việt trong thế kỉ qua:
“Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.”
(Xúc cảnh)
Phân tích tác phẩm Chạy giặc – Mẫu 4
Đừng nói tới cảnh dân chạy giặc vội mà trước hết hãy chú ý đến tiếng súng Tây rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình yên ổn. Lúc tan chợ là bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chỉ, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà. Cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba giống mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật… cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho; hay giản dị hơn chỉ có râu tôm nấu với ruột bầu… Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó, bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.
Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm, súng giặc đất rền. Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. Vừa nghe thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng phút sa tay. Thất bại ập đến nhanh chóng. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng hỗn loạn, lộn xộn sẻ nghé tan đàn:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất tổ đàn chim dáo dác bay
Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc tan chợ:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. Một bàn cờ thế là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt. Ba tiếng phút sa tay trong câu thơ “Một bàn cờ thế phút sa tay” nói lên sự thất thủ nhanh chóng của quân triều đình tại thành Gia Định. Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu trong phần thực đối nhau, phép đảo ngữ vận dụng sắc sảo: Vị ngữ bỏ nhà và mất ổ được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay.
Nếu viết Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy và Đàn chim mất ổ dáo dác bay thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn nữa! Cặp từ láy lơ xơ và dáo dác gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của, tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: Của tiền Bến Nghé tan bọt nước và Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây, mà đã viết:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lí bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỉ XIX vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, thế mà chỉ trong khoảnh khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch tan bọt nước. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút nhuốm màu mây. Hai hình ảnh so sánh tan bọt nước và nhuốm màu mây là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội ác của giặc Pháp xâm lược. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc bài thơ Chạy giặc đã làm sống dậy và hướng tới chúng ta như một bài ca yêu nước. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiểu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
(Núi đôi – Vũ Cao)
Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây.
(Quê mẹ – Tố Hữu)
Trong hơn một thế kỷ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước. Trở lại hai câu kết trong bài Chạy giặc, ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Trang dẹp loạn cũng là trang anh hùng hào kiệt. Rày đâu vắng: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc! Chạy giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỉ XIX.
Bài thơ Chạy giặc được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ, lơ xơ, ổ, dáo dác, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.
Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỉ XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc sống dậy và hướng tới chúng ta khát vọng độc lập, tự do.
Phân tích Chạy giặc – Mẫu 5
Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. Bài thơ “Chạy giặc” là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc”. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
…Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta thời bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế” phút chốc thay đổi bất ngờ “phút sa tay”. Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Vần thơ cất lên như một lời than:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.”
Các từ ngữ: “vừa nghe tiếng súng Tây”, “phút sa tay” làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nỗi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. “Một bàn cờ thế” là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy (1859).
Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: “bỏ nhà”. “lơ xơ chạy”. “mất ổ” “dáo dác bay” đặc tả sự tan nát. hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là “lũ trẻ” lấy thế giới thiên nhiên là “đàn chim”, hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm họa đất nước, quê hương bị xâm lược:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay”
Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ “bỏ nhà” và “mất ổ” tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.
Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên hai cảnh tang thương điêu tàn nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập. Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man. Tài sản của nhân dân ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh ‘”tan bọt nước”. Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang. Lửa khói ngút trời, bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây”. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chi bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc, đổi nhau: “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây” đã căm thù lên án tội ác tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.”
Tội ác quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội ác ghê tởm của giặc Pháp:
“Bình tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,
làm cho bốn phía mây đen ;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai,
ai cứu một phường con đỏ
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa, Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận viết khi nghe tiếng kèn giặc:
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Vốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa…”
(Cảm tác)
Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp bóc dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
“Chạy giặc” là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và tình thương xót nhân dân trước họa xâm lăng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy tiếng súng Tây, nhìn thấy, cảm thấy (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dác bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ “Chạy giặc” là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Với ông “thơ là súng là gươm”.
Phân tích bài Chạy giặc – Mẫu 6
Các nhà thơ, nhà văn được coi là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, thật vậy, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng là một trong số các tác giả như thế. Ông đã dùng ngòi bút sắc nhọn của mình để chĩa thẳng mũi súng căm thù vào quân xâm lăng, bài thơ “Chạy giặc” là một trong những bài thơ khắc họa khung cảnh khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, đó cũng là lời tố cáo của Nguyễn Đình Chiểu về tội ác của chúng.
Bài thơ được viết sau khi thực dân Pháp tấn công vào thành Gia Định – quê hương của nhà thơ (17/2/1859). Chứng kiến cảnh tượng ấy, ông không khỏi xót xa. Là một người yêu quê hương, dân tộc có ai lại không đau đớn khi mảnh đất máu thịt bị xâm chiếm, nhân dân bị áp bức tàn bạo.
Hai câu thơ đầu bài thơ đã mở ra hiện thực đất nước đầy đau thương:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay”.
Thời điểm bắt đầu cuộc tấn công của thực dân Pháp vào Gia Định là thời điểm “tan chợ”. Mọi người trong phiên chợ vừa mới bước chân ra về thì tiếng súng bắt đầu nổ. Chắc hẳn nơi ấy đã diễn ra trận càn quét của quân địch. Tiếng súng vang lên như xé tan cuộc sống yên ổn nơi đây vốn có, thay vào đó là sự lo sợ bởi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. “Tiếng súng Tây” là tiếng súng của thực dân Pháp. Phép ẩn dụ bàn cờ phút “sa tay” ám chỉ triều đình đã để thành Gia Định rơi vào tay giặc. Nói cách khác, quân thực dân đã xâm chiếm được đất Gia Định.
Cảnh chạy giặc của nhân dân được tác giả miêu tả chi tiết mà đau xót biết nhường nào:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”.
Đảo ngữ “bỏ nhà” và “dáo dác” giàu sắc thái biểu cảm khiến cho câu thơ nhuốm màu bi thương. Tiếng súng phát ra như báo trước một điều không hay sẽ xảy đến. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nhiều từ ngữ có khả năng gợi hình cao cùng phép đảo ngữ khiến người đọc có thể hình dung ra sự chết chóc, hoang tàn mà tác giả miêu tả. Đám trẻ con chạy không định hướng vì không có người dẫn dắt. Chúng chạy một cách thất thần để tránh sự nguy hiểm đang ập tới. Không chỉ có con người hoảng loạn, những loài vật như đàn chim cũng bay một cách hốt hoảng, không phương hướng vì bị mất ổ, mất nơi cư trú. Từ láy “lơ xơ” và “dáo dác” đã gợi tả một khung cảnh tan tác, mọi thứ bị đảo lộn vì tiếng súng. “Lũ trẻ” là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, vô tội. Đáng lẽ chúng phải được hưởng cuộc sống thanh bình, no ấm nhưng sự xâm lược của thực dân đã khiến tuổi thơ của những đứa trẻ phải sống trong sợ hãi.
Hiện lên trước mắt người đọc còn là cảnh tượng chết chóc, điêu tàn:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Miền Nam đang chìm trong khói lửa nghi ngút. Thành Gia Định và miền Đông Nam Bộ đã chìm trong ngọn lửa. Đi đến đâu, quân địch thực hiện càn quét, cướp bóc, giết hại dân lành đến đấy. Hành động của chúng vô cùng tàn ác, gây bao thiệt hại cho nhân dân ta. Bến Nghé hay Đồng Nai đều rơi vào tình trạng tiền của, tài sản tan nhanh chóng như bọt nước. Những tội ác của thực dân Pháp đã được diễn đạt qua hai câu thơ có sức khái quát lớn. Nhưng những tang tóc, đau thương nhân dân ta phải gánh chịu còn nhiều hơn thế gấp nhiều lần. Đến cả những gì vô tri vô giác như con rạch, con sông cũng ngùn ngụt chí căm thù. Các ngôi nhà đổ vỡ, ngập chìm trong lửa đốt. Phải chứng kiến cảnh tượng những mái nhà bị thiêu cháy, tiền bạc của mình bỗng chốc tiêu tan có mấy ai không xót xa?
Trước cảnh tượng tàn khốc như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên câu hỏi đầy mỉa mai:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này”.
Câu hỏi tu từ đã lột tả được khung cảnh tan tác, hoảng loạn khi nhân dân chạy giặc. Đây là câu hỏi không chỉ của riêng ông mà còn là câu hỏi của nhân dân nói chung đối với triều đình phong kiến lúc bấy giờ. Nhân dân lầm than, khổ cực, rất cần một con đường giải thoát, chống lại ách áp bức nhưng “trang dẹp loạn” lại vắng bóng. Vua quan, triều đình nhà Nguyễn đi đâu vắng lại không xuất hiện và cứu giúp nhân dân đang chịu cảnh cơ cực?
Hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện sự xót thương của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan mà còn bộc lộ thái độ căm thù giặc sâu sắc, sự thất vọng khi triều đình không chăm lo cho cuộc sống nhân dân mà họ còn nhu nhược, bắt tay với thực dân Pháp. Sự hèn nhát của triều đình, của những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước, chăm lo cho cuộc sống nhân dân thật đáng mỉa mai, khinh bỉ. Sự bất lực của nhà Nguyễn đã khiến nhân dân ta rơi vào cảnh điêu đứng, không lối thoát. Câu hỏi tu từ đó cũng nhằm mục đích thức tỉnh những người con yêu nước đứng lên chống lại sự đô hộ, mang lại cuộc sống ấm no cho “dân đen”.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có kết cấu đề – thực – luận – kết chặt chẽ. Là một người con của đất Gia Định nên ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Đình Chiểu mang đậm màu sắc Nam Bộ. Bút pháp hiện thực – trữ tình được tác giả vận dụng rất triệt để và đạt hiệu quả cao. Ẩn chứa đằng sau bức tranh “Chạy giặc” là tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng.
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả chân thật cảnh tượng đất nước bị quân thực dân chà đạp, giày xéo mà còn thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tuy rằng ông bị mù lòa, không thể trực tiếp ra trận nhưng ngòi bút chiến đấu của ông vô cùng sắc sảo. Bài thơ “Chạy giặc” là một bài thơ tiêu biểu của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX, là lời tố cáo đanh thép, hùng hồn về tội ác của thực dân Pháp.
Phân tích bài thơ Chạy giặc – Mẫu 7
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông là gương mặt tiêu biểu của nhân dân Nam Bọ trong phong trào thơ ca yêu nước chống quân xâm lược. Những tác phẩm của ông thường có tính đấu tranh vô cùng mạnh mẽ. Phê phán và lên án sự tàn bạo của quân thực dân xâm lược. Bài thơ “Chạy giặc” là một tác phẩm điển hình cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ dường như đã tái hiện được khung cảnh xã hội. Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, với những sự hoang tàn, bi đát. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích và nghị luận bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu.
Thực dân Pháp đô hộ nước ta vào những năm 1958. Chúng đã thể hiện sự bành trướng của mình, khiến cho nhân dân ta lâm vào cảnh khổ cực khốn cùng. Trước những cảnh đau thương thương tang tóc này. Nguyễn Đình Chiểu đã không khỏi đau xót thương tâm. Lòng yêu nước trỗi dậy, sự căm thù quân xâm lược càng dâng cao. Và trong cái tình cảnh ấy, ông đã sáng tác bài thơ “Chạy giặc” như là một sự minh chứng về thời kỳ lầm than của dân tộc ta trong bối cảnh hỗn loạn. Bài thơ cũng thể hiện sự căm thù đến tột cùng đối với quân xâm lược tàn bạo.
Mở đầu bài thơ là một sự tái hiện về những tiếng súng dữ dội của kẻ thù”
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Mở đầu bài thơ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại không khí đầy dữ dội khi tiếng súng Tây. Làm cho mọi người trở nên hoảng loạn, mọi vật đều nhuốm màu bi thương. Không gian mà nhà thơ tái hiện đó chính là không gian của một khu chợ. Và thời điểm được gợi nhắc đến đó chính là thời điểm “tan chợ”.
Lúc này chính là lúc người người đang tấp nập rủ nhau ra về sau buổi chợ. Khi ấy thì tiếng súng Tây bắt đầu nổ dồn, đây là sự hủy diệt tàn bạo của lũ giặc cướp nước. Bởi chúng nhằm vào thời điểm con người mất cảnh giác nhất, tập trung đông đúc nhất để nổ súng, sát hại người dân ta. Ở đây tác giả vừa thể hiện được hành động tàn bạo, vô nhân tính của quân Pháp. Vừa thể hiện được thái độ căm thù của mình với chúng.
Hai từ “súng Tây” như một kiểu nói cộc lốc. Một sự coi thường quân cướp nước, một sự lên án của những kẻ chỉ muốn dùng vũ lực bằng súng. Và trong cái tiếng súng đột ngột đó khiến cho rất nhiều người phải sợ hãi, hoảng loạn.
“Một bàn cờ thế lúc xa tay” với ý nghĩa là khi đang chơi một ván cờ thế. Bỗng dưng do tiếng súng kia là cho giật mình và làm những quân cờ sa xuống bàn cờ. Tội ác của kẻ thù thực sự đáng ghê sợ, một hành động đáng bị lên án.
Hai từ “súng Tây” đã thể hiện được điều đó, tác giả không lên án trực tiếp bọn thực dân Pháp mà gọi chúng với cái tên đầy coi thường. Bọn Tây, tức những người khác chúng ta về chủng tộc, mang trong mình âm mưu thâm độc, thấp hèn đáng coi thường, chúng dùng bạo lực chèn ép dân ta, hành động thật đáng lên án. Trong một tác phẩm khác của mình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng thể hiện được thái độ căm thù khôn xiết của mình đối với bọn giặc.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Tiếng súng Tây đột ngột nổ dồn khiến cho mọi người có mặt trong khung cảnh ấy hoảng loạn, sợ hãi “Một bàn cờ thế lúc sa tay”. Câu thơ này có thể hiểu là những người chơi cờ vì bị tiếng súng làm cho giật mình mà làm sa những quân cờ xuống bàn cờ.
Hoặc ta cũng có thể hiểu bàn cờ thế lúc sa tay này chính là thực trạng của Việt Nam lúc bấy giờ, là lúc dân tộc ta đang thất thế trước quân giặc. Chúng đã lợi dụng tình hình bất ổn của đất nước ta mà nhảy vào xâm lược, gây ra bao nhiêu cảnh đau khổ. Khung cảnh khi có tiếng súng Tây cũng thật hỗn loạn, xơ xác. Không chỉ con người mà ngay cả những loài vật cũng hoảng loạn, tìm đường chạy chốn, ẩn náu:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”
Đó là cảnh những đứa trẻ vì bị tiếng súng dọa cho giật mình, sợ hãi mà bỏ nhà chạy toán loạn. Muốn chạy trốn tiếng súng cũng như sự hủy diệt đáng sợ ấy “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”, chúng mới chỉ là những đứa con nít. Hàng ngày phải sống trong khung cảnh dữ dội, hủy diệt của bom đạn quả thực vô cùng đáng thương. Chúng đang ở tuổi hồn nhiên nhất của cuộc đời, là những lúc vô lo, vô nghĩ nhất nhưng lại sinh ra trong giai đoạn đất nước đầy biến động, bạo loạn.
Không chỉ có lũ trẻ sợ hãi, mà ngay cả những loài vật trong tự nhiên cũng bị sự hủy diệt của kẻ thù mà mất đi nơi sinh sống. Hoảng loạn mà bay dáo dác khắp nơi để tìm chỗ trú ẩn. Không khí mà nhà thơ gợi ra ở đây thật hỗn loạn, bi thương.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Một địa danh của Gia Đình là Bến Nghé, khi bị xâm phạm. Những thứ vô tri như bến nước, dòng sông cũng đã bị lay động. Những đồng cảm của những thứ vốn vô tri đó với thực cảnh đất nước đang trong chiến tranh. Bọt nước vỡ tan ở Bến Nghé, khung cảnh yên bình không còn nữa. Sự vỡ tan ấy cũng như sự phẫn nộ của đất trời, thiên nhiên vô tri trước tội ác của quân giặc. Dòng sông Đồng Nai cũng bị nhuốm màu của bi thương, đau khổ. Đó chính là sự đồng cảm, hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người. Cái cảnh đau thương của con người, cũng làm cho cảnh vật vô tri cũng có cảm xúc. Nó chính là một sự phẫn nộ trước sự tàn phá của kẻ thù.
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Như một câu hỏi trước sự thật đau lòng. Đất nước đang bị tàn phá, người dân phải chịu khổ cực. Một câu hỏi như là một lời trách móc đối với cái triều đình vô dụng nhà Nguyễn. Một triều đình thực sự nhu nhược, chỉ biết đến lợi ích của mình mà quên đi những người dân đang sống trong cảnh mắc nạn. Để cho quân xuân lược chèn ép, áp đặt “mắc nạn này”. Một sự chờ đợi mong mỏi, có một người tài trí, một vị tướng tài ba sẽ đứng lên chống lại kẻ thù. Nhưng vào thời điểm này, thì đâu có xuất hiện ai bởi cái triều đình thối nát đó.
Sau khi phân tích và nghị luận bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu. Chúng ta thấy được đây thực sự là một tuyệt phẩm thơ của ông trong thời kỳ biến loạn của đất nước dưới sự xâm lực của quân thực dân. Bài thơ đã thể hiện được tình yêu đất nước, và qua đó cũng thể hiện sự căm thù quân xâm lược. Bài thơ là một sự thể hiện cảm xúc thực, tình cảm thực của chính Nguyễn Đình Chiểu.
Phân tích bài thơ Chạy giặc – Mẫu 8
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho. Khi thực dân Pháp tiến hành đánh chiếm quê hương, trong thời điểm đó ông đã bị mù nhưng nỗi đau đớn của một người dân yêu nước chứng kiến cảnh nước mất nhà tan nên ông đã hình dung tưởng tượng ra thảm cảnh thê lương ấy. Ông đã vẽ lên bức tranh đầy máu và nước mắt ở một thời điểm đen tối của dân tộc.
Bài thơ Chạy giặc là bức tranh hiện thực của những ngày đất nước rơi vào nạn xâm lăng và đây cũng là một tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước.Nhân vật trữ tình đã thể hiện nỗi đau của người dân trong cảnh nước mất nhà tan với những cung bậc khác nhau. Hai câu thơ đầu là lời kể lời tả của nhà thơ về bức tranh hiện thực của cảnh chạy Tây.
Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Hai câu thơ đã diễn tả hoàn cảnh bi thảm của nhân dân Nam bộ lúc bấy giờ. Hai câu thơ cho thấy thời gian diễn ra tình ảnh éo le ấy thật nhanh chóng chỉ chốc lát khi mà bọn tay sai lùng sục khi đi qua khu chợ. Đó là thời điểm mới tan chợ, đây là một thời điểm khá vắng vẻ hiu quạnh.
Không gian lúc này như đang chìm vào trong vẻ tĩnh mịch lặng lẽ mọi người còn đang chìm vào trong giấc ngủ trưa thế nhưng tiếng súng đột ngột khiến cho khung cảnh thanh bình đó bỗng chốc tan biến vào quá khứ và một cảnh tượng chạy giặc kinh hoàng và cực kì đau xót. Đó là nỗi đau cũng là nỗi kinh hoàng của nhân dân thành Gia Định Và cũng là của chính tác giả khi mà cảnh tượng đau thương ấy diễn ra.
Cảnh chiến trận đã bắt đầu “một bàn cờ thế” là hình ảnh ẩn dụ nói về cuộc chiến và thế giằng co giữa quân triều đình và quân giặc. Ba tiếng “phút sa tay” thể hiện sự thất thủ của quân triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Đằng sau hai câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa về quê hương đất nước mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo. Hai câu tiếp theo là cảnh chạy giặc chạy loạn trong nỗi kinh hoàng của nhân dân trước thảm cảnh:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ bầy chim dáo dát bay
Nếu viết “Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy” và “Đàn chim mất ổ dáo dát bay” thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn gì nữa! Cặp từ láy “lơ xơ” và “dáo dát” gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu thực của bài thơ là một bức tranh cụ thể sinh động thể hiện lại tình cảnh tan tác bi thương của nhân dân khi ấy. Sự xuất hiện của giặc thù quá đột ngột, sự chống chọi của quân ta lại thất bại quá nhanh chóng khiến cảnh dắt dìu gồng gánh nhay chạy loạn càng thật đau lòng. Đang sống hạnh phúc êm ấm bên những người thân, bất chợt giặc thù từ đâu ập đến bắt giết, mọi gia đình đều chưa chuẩn bị gì, chỉ biết hốt hoảng dắt nhau trốn chạy.
Nhà thơ đặc tả cảnh tượng ấy bằng hai chữ hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy và bầy chim dáo dác bay. Lối đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm nổi bật lên trước mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim nhưng cũng khắc họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng. Hai câu tiếp theo là cảnh tan thương của một vùng đất bị giặc chiếm đóng.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu mây.
Một vùng đất vốn được coi là trù phú và khá là sầm uất mà bỗng chốc rơi vào cảnh nhà tan cửa nát, một cảnh tượng tan thương. Bến Nghé và Đồng Nai vốn là một vựa lúa sầm uất trên bến dưới thuyền mà chỉ trong phút chốc đã bị thực dân Pháp phá tan tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch “tan bọt nước”. Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút “nhuốm màu mây”.
Hai hình ảnh so sánh “tan bọt nước” và “nhuốm màu mây” là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra. Hai câu cuối bài thơ thể hiện niềm đau đớn lo toan cho số phận của đất nước dân tộc ta trước cảnh mất nước.
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Lỡ để dân đen mắc loạn này
“Trang dẹp loạn” cũng là trang anh hùng hào kiệt. “Rày đâu vắng”: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quai với bom đạn giặc.
Bài thơ Chạy giặc được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam bộ. Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.
Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc và cũng là khát vọng độc lập, tự do.
Phân tích bài Chạy giặc lớp 11 – Mẫu 9
Năm 1858, thực dân Pháp nã phát súng đầu tiên xâm lược vào thành Đà Nẵng. Để rồi một năm sau, chúng lại từ Đà Nẵng tấn công chiếm Gia Định. Trước cảnh quê hương bị tàn phá, nhà tan nước mất, nhân dân hốt hoảng, hoang mang trong tay giặc, mặc dù mù lòa không nhìn thấy gì nhưng với tấm lòng xót xa, buồn đau vô hạn, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ Chạy Giặc để ghi lại tâm trạng của mình.
Mở đầu bài thơ là cảnh bị Tây đánh bất ngờ:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Hai câu thơ cho thấy quân giặc tấn công rất nhanh chóng cũng rất bất ngờ. Tiếng súng đột ngột ấy của chúng đã đẩy cuộc sống thanh bình, đông đúc, nhộn nhịp của dân ta bỗng chốc tan biến sâu vào quá khứ và mở ra trước mắt cảnh tượng chạy giặc thật kinh hoàng, đau xót:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay”.
Hai câu thực của bài thơ là một bức tranh cụ thể sinh động thể hiện lại tình cảm tan tác bi thương của nhân dân khi ấy. Sự xuất hiện của giặc thù quá đột ngột, sự chống chọi của quân ta lại thất bại quá nhanh chóng khiến cảnh dắt dìu gồng gánh nhay chạy loạn càng thật đau lòng.
Đang sống hạnh phúc êm ấm bên những người thân, bất chợt giặc thù từ đâu ập đến bắt giết, mọi gia đình đều chưa chuẩn bị gì, chỉ biết hốt hoảng dắt nhau trốn chạy. Nhà thơ đặc tả cảnh tượng ấy bằng hai chữ hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy và bầy chim dáo dác bay. Lối đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm nổi bật lên trước mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim nhưng cũng khắc họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng.
Liền mạch thơ, lẽ ra hai câu thơ kế tiếp nhà thơ phải bàn luận vấn đề, nhưng không, với tất cả lòng đau đớn xót xa của mình, ông tiếp tục vẽ lên một bức tranh toàn cảnh quê hương bị giặc thù đang tâm tàn phá trong một không gian thật là xa rộng:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Tuy Bến Nghé, Đồng Nai chỉ là một bến nước, một dòng sông ở Gia Định nhưng đó cũng chính là toàn cảnh của quê hương ta khi quân Pháp đặt gót giày xâm lược đến. Cả một mảnh non sông gấm vóc đang yên ổn tốt tươi trong phút chốc đã bị kẻ thù đang tâm tàn phá thành ra tro bụi. Tiền tài, sản vật của nhân dân bị chúng thả sức cướp bóc. Nhà của làng quê bị đốt phá, lửa khói dấy lên ngút trời. Nỗi xót đau thương thật lay động cả trăng sao.
Hai câu thơ ấy đúng là một bức tranh cụ thể và sinh động đầy gợi cảm về hình ảnh quê hương bị giày xéo, tàn phá khắp nơi: tan tác, đỗ vỡ, khói lửa đầy trời. Ngoài ra, đó cũng là một lời gián tiếp mạnh mẽ lên án hành động cướp phá hung bạo của thực dân Pháp xâm lược.
Như vậy cả bốn câu thơ thực và luận đã làm nên một bức tranh toàn cảnh, nêu bật được hình ảnh bi thương của đất nước, quê hương dưới gót giày đinh xâm lược của giặc Pháp. Cả một trời hốt hoảng, tan tác, đau buồn từ mặt đất đến bầu trời, từ con người đến loài vật. Quân giặc đã cướp bóc tiền của, đốt phá nhà cửa, xóm làng trong khắp cả một vùng Đồng Nai, Bến nghé. Tâm trạng và thái độ cụ đồ không chỉ chan chứa, thấm được trong từng câu thơ đau xót trên mà còn thể hiện khá rõ nét ở hai câu kết:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này.
Hai câu thơ trên làm thành một tiếng kêu đau đớn, xót xa xuất phát từ trái tim nồng nàn yêu quê hương, đất nước, đỏ rực ngọn lửa căm thù trước tội ác trời không dung đất không tha của giặc. Nhà thơ không những đau xót vì cảnh quốc phá gia vong, nhân dân tan tác, đau thương, lơ xơ, dáo dác mà ông còn thất vọng và bất bình biết mấy trước tình cảnh quê hương ngập tràn bóng giặc mà quân của triều đình thì bặt tăm khuất dạng bỏ mặc nhân dân phải chịu thống khổ điêu linh.
Hai câu thơ kết còn hàm chứa một nỗi chờ mong đến khắc khoải bóng dáng của trang dẹp loạn tài ba xuất chúng sẽ mau chóng ra tay cứu nước phò đời. Tiếng kêu đau đớn thốt lên từ trái tim đang rỉ máu của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu sau đó đã được biết bao sĩ phu yêu nước khác khắp ba miền đáp ứng nhưng các cuộc dấy nghĩa nhằm giành lại độc lập cho đất nước tự do cho dân tộc đều bị thực dân Pháp dìm vào biển máu.
Phải đợi đến khi nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước bao năm mới trở về lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến trường kì gian khổ đã giành thắng lợi thì nỗi chờ mong khắc khoải, ước vọng lớn của nhà thơ mới đáp ứng hoàn toàn.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu Dàn ý & 9 bài văn mẫu lớp 11 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.