Bạn đang xem bài viết Ôn tập cuối năm học Tiết 6, 7 Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức Tập 2 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Ôn tập cuối năm học Tiết 6, 7 giúp các em học sinh lớp 4 nhanh chóng trả lời các câu hỏi trong SGK Tiếng Việt 4 tập 2 Kết nối tri thức với cuộc sống trang 139, 140, 141. Qua đó, sẽ củng cố kiến thức, ôn tập học kì II thật hiệu quả.
Đồng thời, cũng giúp thầy cô nhanh chóng soạn giáo án Ôn tập cuối năm học Tiết 6, 7 – Tuần 35 của Chủ đề Ôn tập và Đánh giá cuối năm học theo chương trình mới cho học sinh của mình. Vậy mời thầy cô và các em tải miễn phí bài viết dưới đây của Thcslytutrongst.edu.vn để chuẩn bị thật tốt cho tiết ôn tập.
Soạn Tiếng Việt 4 tập 2 Kết nối tri thức trang 139, 140, 141
A. Đọc
I. Đọc thành tiếng và thực hiện yêu cầu.
CHIỀU THU QUÊ EM
Nắng chiều mỏng manh sợi chỉ
Chuồn kim khâu lá trong vườn
Hoa chuối rơi như tàn lửa
Đất trời được ướp bằng hương.
Con chim giấu chiều trong cánh
Để rơi tiếng hót khi nào
Hoàng hôn say về chạng vạng
Lục bình líu ríu cầu ao.
Dòng sông mát lành tuổi nhỏ
Nước tung toé ướt tiếng cười
Con bò mải mê gặm cỏ
Cánh diều ca hát rong chơi.
Lúa bá vai nhau chạy miết
Dừa cầm gió lọt kẽ tay
Mây trốn đâu rồi chẳng biết
Chiều lo đến tím mặt mày!
Không gian lặn vào ngòi bút
Bé ngồi phác hoạ mùa thu
Quê hương hiện lên đậm nét
Buổi chiều rung động tâm tư.
(Trương Nam Hương)
Câu 1: Kể tên 5 sự vật được miêu tả trong bài thơ.
Trả lời:
5 sự vật được miêu tả trong bài thơ là: Chuồn kim, hoa chuối, dòng sông, con bò, mây….
Câu 2: Tìm trong bài 2 câu thơ có sử dụng biện pháp nhân hoá.
Trả lời:
2 câu thơ có sử dụng biện pháp nhân hóa là:
– Con chim giấu chiều trong cánh
– Cánh diều ca hát rong chơi
II. Đọc hiểu
HƠN MỘT NGHÌN NGÀY VÒNG QUANH TRÁI ĐẤT
Ngày 20 tháng 9 năm 1519, từ cảng Xê-vi-la nước Tây Ban Nha, có năm chiếc thuyền lớn giong buồm ra khơi. Đó là hạm đội do Ma-gien-lăng chỉ huy, với nhiệm vụ khám phá con đường trên biển dẫn đến những vùng đất mới.
Vượt Đại Tây Dương, Ma-gien-lăng cho đoàn thuyền đi dọc theo bờ biển Nam Mỹ. Khi tới gần mỏm cực nam, đoàn thám hiểm phát hiện một eo biển dẫn tới một đại dương mênh mông. Thấy sóng yên biển lặng, Ma-gien-lăng đặt tên cho đại dương mới tìm được là Thái Bình Dương.
Thái Bình Dương bát ngát, đi mãi chẳng thấy bờ. Thức ăn cạn, nước ngọt hết sạch. Thuỷ thủ phải uống nước tiểu, ninh nhừ giày và thắt lưng da để ăn. Mỗi ngày có vài ba người chết phải ném xác xuống biển. May sao, gặp một hòn đảo nhỏ, được tiếp tế thức ăn và nước ngọt, đoàn thám hiểm ổn định được tinh thần.
Đoạn đường từ đó có nhiều đảo hơn. Không phải lo thiếu thức ăn, nước uống nhưng lại nảy sinh những khó khăn mới. Trong một trận giao tranh với dân đảo Ma-tan, Ma-gien-lăng đã bỏ mình, không kịp nhìn thấy kết quả công việc mình làm.
Những thuỷ thủ còn lại tiếp tục vượt Ấn Độ Dương tìm đường trở về Châu Âu. Ngày 08 tháng 9 năm 1522, đoàn thám hiểm chỉ còn một chiếc thuyền với mười tám thuỷ thủ trở về Tây Ban Nha.
Chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới của Ma-gien-lăng kéo dài 1083 ngày, mất bốn chiếc thuyền lớn, với gần hai trăm người bỏ mạng dọc đường. Nhưng đoàn thám hiểm đã hoàn thành sứ mạng, khẳng định Trái Đất hình cầu, phát hiện Thái Bình Dương và nhiều vùng đất mới.
(Theo Trần Diệu Tấn và Đỗ Thái)
Từ ngữ
– Ma-tan: một đảo thuộc quần đảo Phi-líp-pin ngày nay.
– Sứ mạng: nhiệm vụ cao cả.
Trả lời câu hỏi và thực hiện yêu cầu.
Câu 1: Ngày 20 tháng 9 năm 1519 có sự kiện gì đặc biệt?
Trả lời:
Ngày 20 tháng 9 năm 1519 là ngày Ma-gien-lăng chỉ huy hạm đội đi khám phá con đường trên biển dẫn đến những vùng đất mới.
Câu 2: Ma-gien-lăng đặt tên cho đại dương mới tìm được là gì? Tìm câu trả lời đúng.
A. Đại Tây Dương
B. Thái Bình Dương
C. Ấn Độ Dương
D. Bắc Băng Dương
Trả lời:
Ma-gien-lăng đặt tên cho đại dương mới tìm được là Thái Bình Dương.
Chọn B.
Câu 3: Vì sao Ma-gien-lăng đặt tên cho đại dương mới như vậy? Tìm câu trả lời đúng.
A. Vì ông thấy nơi này rộng mênh mông.
B. Vì ông thấy nơi này rất yên bình.
C. Vì ông thấy nơi này rất thơ mộng.
D. Vì ông thấy nơi này bát ngát, đi mãi chẳng thấy bờ.
Trả lời:
Ma-gien-lăng đặt tên cho đại dương mới như vậy vì ông thấy nơi này rất yên bình.
Chọn B.
Câu 4: Những khó khăn mà đoàn thám hiểm gặp phải là gì?
Trả lời:
Những khó khăn mà đoàn thám hiểm gặp phải là :
– Thức ăn cạn, nước ngọt hết sạch.
– Đi mãi chẳng thấy bờ.
– Trận giao tranh với dân đảo Ma-tan.
Câu 5: Đoàn thám hiểm của Ma-gien-lăng đã đi theo hành trình như thế nào?
Trả lời:
Đoàn thám hiểm của Ma-gien-lăng đã đi theo hành trình :
Châu Âu => Đại Tây Dương => Nam Mỹ => Thái Bình Dương => Ma-tan => Ấn Độ Dương => Tây Ban Nha
Câu 6: Những kết quả mà đoàn thám hiểm đã đạt được là gì?
Trả lời:
Những kết quả mà đoàn thám hiểm đã đạt được là:
– Hoàn thành sứ mạng.
– Khẳng định Trái Đất hình cầu.
– Phát hiện Thái Bình Dương và nhiều vùng đất mới.
Câu 7: Trong bài đọc có bao nhiêu danh từ riêng? Đó là những danh từ nào?
Trả lời:
Trong bài viết có 10 danh từ riêng. Đó là những danh từ: Xê-vi-la, Tây Ban Nha, Ma-gien-lăng, Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ma-tan, Ấn Độ Dương, Châu Âu, Tây Ban Nha, Trái Đất.
Câu 8: Xác định chủ ngữ, vị ngữ và trạng ngữ của câu sau:
Khi tới gần mỏm cực nam, đoàn thám hiểm phát hiện một eo biển dẫn tới một đại dương mênh mông.
Trả lời:
Khi tới gần mỏm cực nam/, đoàn thám hiểm/ phát hiện một eo biển dẫn tới một đại
TN CN VN
dương mênh mông.
Câu 9: Đặt một câu nói về Ma-gien-lăng, trong câu có thành phần trạng ngữ.
Trả lời:
Trong câu chuyện, Ma-gien-lăng thực hiện cuộc thám hiểm nhằm mục đích khám phá con đường trên biển dẫn đến những vùng đất mới.
Trạng ngữ: Trong câu chuyện
B. Viết
Chọn 1 trong 2 đề dưới đây:
Đề 1: Viết bài văn miêu tả một cây hoa mà em thấy trong vườn trường hoặc trên đường đi học.
Đề 2: Hãy tưởng tượng em tham gia đoàn thám hiểm của Ma-gien-lăng và vừa trở về đất liền, có nhiều người ra đón em. Kể lại cuộc gặp gỡ đó.
Trả lời:
Đề 1:
Hè về, nắng trong vắt như mật ong, gió thoảng từng cơn oi nồng. Bọn học trò chúng em bận bịu với những bài ôn thi, những dòng lưu bút viết vội. Một hương vị mùa hè lan tỏa khắp trường. Mọi người vội nhìn ra vườn trường: hoa phượng nở đỏ sân trường rồi. Nhìn cây phượng vĩ trồng giữa vườn trường em, chúng em biết mùa hè đã thật sự đến.
Cây phượng cao lắm, cao hơn cả tầng ba của tòa nhà em học. Thân cây to lớn đến phải hai bạn học sinh ôm vẫn chưa xuể. Lớp vỏ trên thân cây sần sùi, hằn từng khe, rãnh như là mặt ruộng vào mùa hạn. Bộ rễ của cây thì chắc hẳn rất to và dài. Vì chỉ với một phần nhô trên mặt đất đã to hơn cả bắp tay rồi.
Cành chính của cây phượng thì chỉ gồm bốn cành. Nhưng từ đó, tỏa ra nhiều cành phụ lắm. Chúng đan vào nhau tạo thành một chiếc ô khổng lồ che bóng mát cho chúng em vui chơi. Khi mùa hè đến, cây phượng nở hoa đỏ rực. Những cánh hoa mỏng manh như cánh gián, đỏ tươi hơn cả mặt trời trở thành tín hiệu báo cho chúng em sắp kết thúc năm học.
Cây phượng già đã chứng kiến bao niềm vui nỗi buồn của chúng em. Mỗi lần phượng nở hoa, lòng em lại rộn ràng lên những cảm xúc khó tả. Đó là lúc em khi sắp phải xa mái trường, xa cây phượng. Mai đây lớn khôn, em luôn nghĩ về ngôi trường tiểu học, nhớ tới cây phượng già thân quen này.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Ôn tập cuối năm học Tiết 6, 7 Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức Tập 2 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.