Bạn đang xem bài viết Dục Đức là ai? Xót thương ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Trong lịch sử nước ta, có rất nhiều nhân vật đáng nhớ và được người dân ghi nhận với những hành động vĩ đại, nhưng cũng có không ít những nhân vật sống trong cảnh đau khổ, số phận bi thảm. Trong số đó, không thể không nhắc đến một nhân vật lịch sử mang tên Dục Đức – vị vua theo ngôi vua thứ tám của triều đại Nguyễn.
Một cuộc đời đầy cay đắng, những bi kịch vô tận đã trói buộc Dục Đức vào sự oan trái và đau thương. Sinh ra trong gia đình hoàng tộc, từ nhỏ Dục Đức đã phải chứng kiến những sự cạnh tranh khốc liệt để giành quyền lực. Cuối cùng, ông trở thành người thừa kế vị trí vua, nhưng số phận dường như đã không hề mỉm cười với ông.
Một bước lên ngôi, Dục Đức đã phải đối mặt với những âm mưu, đả kích từ cả trong và ngoài triều đình. Sự ganh ghét, thù hận đã đi kèm với mỗi hành động của ông. Bị coi là vua không bao giờ nắm quyền thực tế, Dục Đức dần trở thành một cường tộc trong lòng dân chúng, mãi mãi bị coi thường và ái oan.
Tuy nhiên, có lẽ điều đáng thương nhất của Dục Đức không chỉ đến từ sự xứng đáng hay không xứng đáng với vị trí mình đang đảm nhiệm. Mà nó còn đến từ những sự nhục nhã và bất công mà ông đã phải chịu đựng. Bị ép buộc cắt đôi tóc, không được làm lễ hoặc cùng với điểm danh thường ngày ở triều đình, Dục Đức là một con người không được tôn trọng, không được coi trọng cho dù ông đã là vua.
Dục Đức thật sự là một nhân vật lịch sử đáng thương nhất trong lịch sử Việt Nam. Vậy câu chuyện về cuộc đời bi kịch của ông chứng tỏ được điều gì? Liệu rằng trong xã hội, chúng ta đã tôn trọng những người có đạo đức và trí tuệ cao hay vẫn lựa chọn những điều tồi tệ nhất cho mình? Câu trả lời chỉ có thể được tìm thấy khi ta đi sâu vào cuộc sống và tìm hiểu chân thực về con người.
Ít ai biết rằng, lịch sử triều Nguyễn Việt Nam có một ông Vua chỉ lên ngôi được 3 ngày và có số phận vô cùng bi thảm. Đó là Vua Dục Đức. Cùng Chúng Tôi tìm hiểu Dục Đức là ai và cuộc đời, thân thế của vị Vua này nhé!
Dục Đức là ai?
Dục Đức là vị Vua thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau được Vua Tự Đức đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông lên ngôi Vua ngày 19/7/1883, nhưng tại vị chỉ được 3 ngày, ngắn nhất trong số 13 vị hoàng đế của triều Nguyễn.
Ông được Vua Thành Thái truy tôn Miếu hiệu là Cung Tông, Thụy hiệu là Khoan nhân Duệ triết Tĩnh minh Huệ hoàng đế. Dục Đức là tên gọi khi ông còn ở Dục Đức Đường.
Tiểu sử Vua Dục Đức
Vua Dục Đức sinh năm nào?
Vua Dục Đức sinh ngày 23 tháng 2 năm 1852. Một số tài liệu khác ghi chép rằng ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (tức 11 tháng 2 năm 1853). Dục Đức được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 17 tuổi.
Vua Dục Đức mất năm nào?
Vua Dục Đức mất ngày 6 tháng 10 năm 1883, Giờ Thìn (7 – 9 giờ), hưởng dương 32 tuổi. Lăng của Vua Dục Đức là An Lăng, tại làng An Cựu, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Vua Dục Đức quê ở đâu?
Vua Dục Đức quê ở Huế. Nói về ngai vàng triều Nguyễn sau khi Vua Tự Đức băng hà (19/7/1883), chỉ trong bốn tháng (từ tháng 7 đến tháng 11/1883) đã ba lần đổi chủ: Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc. Vì thế, bấy giờ ở Huế lan truyền hai câu thơ:
“Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường.”
Nghĩa là “Một sông, hai nước, lời khó nói. Bốn tháng, ba Vua, điềm chẳng lành”.
Thân thế và cuộc sống ban đầu của Vua Dục Đức
Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (con trai thứ tư của Vua Thiệu Trị) và bà Trần Thị Nga.
Năm 17 tuổi, ông được Vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Vốn dĩ Vua Tự Đức có tới 103 người vợ nhưng lại không có con nối dõi, nên đã nhận ba người cháu làm con nuôi. Trong số đó, người lớn nhất là Nguyễn Phúc Ưng Chân. Đến năm 1870, Ưng Chân được chọn làm Hoàng trưởng tử.
Dục Đức được Vua Tự Đức cho xây dựng phòng riêng để ăn ở, học tập. Vua giao ông cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo. Nơi học tập của Vua Dục Đức về sau được gọi là Dục Đức Đường. Năm 1883, ông được phong làm Thụy Quốc Công.
Vị Vua 3 ngày?
Ngày 15 tháng 7 năm 1883, Vua Tự Đức lâm trọng bệnh, cần tìm người nối ngôi trong 3 người con nuôi. Người con thứ 3 là Nguyễn Phúc Ưng Đăng vốn được cho là người mà Vua cha muốn truyền ngôi nhất. Nhưng thời điểm bấy giờ, đất nước đang rối ren do bị Pháp xâm lược, Ưng Đăng lại quá nhỏ tuổi.
Lúc này, Vua Tự Đức buộc phải ban chiếu chỉ, chọn Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Ưng Chân – người con nuôi lớn tuổi nhất để nối ngôi nhằm chăm lo chính sự. Dù cho Ưng Chân ham chơi, phóng túng, thường bị Vua Tự Đức quở trách.
Trong di chiếu truyền ngôi của Vua Tự Đức có đoạn viết: “Ưng Chân có tật ở con mắt nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt, chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có Vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây?”.
Cả ba vị trong Hội đồng phụ chính gồm Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đều dâng sớ xin Vua Tự Đức lược bỏ đoạn di chiếu không hay về Ưng Chân nhưng Vua không đồng ý. Vì ông muốn cảnh tỉnh Ưng Chân và mong người kế vị sẽ đi theo con đường thiện.
Sau khi Vua Tự Đức băng hà, Nguyễn Phúc Ưng Chân lên ngôi kế vị vào ngày 19/7/1883. Ngày làm lễ tấn tôn Ưng Chân lên ngai vàng, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc di chiếu và đã đọc lược một số đoạn “không cần thiết” theo yêu cầu của Vua Dục Đức. Khi bị hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phát hiện ra, Trần Tiễn Thành bị truy tội làm giả di chiếu của tiên đế và bị xử nặng.
Đúng 3 ngày sau, hai phụ chính đại thần dâng biểu lên Thái hoàng Thái hậu Từ Dụ, vạch ra 4 tội lớn của nhà Vua: “Sửa lại di chiếu của Vua cha; Có đại tang lại mặc áo màu; Tự tiện đưa giáo sĩ vào Hoàng Thành; Thông dâm với cung nữ của Vua cha.” Sau đó, vào 23/7/1883 Vua Dục Đức bị phế truất. Chỉ sau 3 ngày làm Vua, chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức đã trở thành kẻ trọng tội.
Kết cục phế đế
Sau khi bị phế truất, Dục Đức bị giáng xuống làm Thụy Quốc Công như trước. Ông bị giam ở Dục Đức đường, rồi tới Viện Thái Y, và cuối cùng là Ngục thất trong Kinh thành Huế. Tại đây, ông qua đời sau gần một tháng vì bị bỏ đói và không cho uống nước, hưởng dương 32 tuổi.
Sau khi mất, thi hài của Vua Dục Đức được gói trong một chiếc chiếu rách, do hai người lính mang đi chôn. Khi đi đến đầu làng An Cựu, ngoại thành Huế, chiếc chiếu có thi hài Vua bị đứt dây rơi xuống cạnh một khe nước cạn. Tin rằng đây là nơi yên nghỉ do Vua tự chọn, người ta chỉ chôn cất ông qua loa cho xong việc.
Ba ngày sau, vợ con của Dục Đức mới được thông báo để làm lễ chịu tang. Nấm mộ đất cạnh khe nước cạn, lại không người chăm sóc nên nhanh chóng tàn lụi. Có lần, một người ăn mày đói chết, gục trên mộ Vua. Dân ở đó không biết đây là mộ Vua nên đã chôn người ăn mày ngay trên mộ Vua.
Năm 1889, con trai của Vua Dục Ðức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi Vua, lấy niên hiệu là Thành Thái. Ông lần theo dấu vết và lời kể lại để tìm mộ Vua cha. Tuy nhiên, khi đào lên, người ta phát hiện tới hai bộ hài cốt. Vì thế, Vua Thành Thái đành cho người ta lấp đất lại, xây nơi đó thành An Lăng. Vua Dục Đức được an táng cùng người ăn mày tại đây.
An Lăng xây xong vào đầu năm 1890, nhưng chưa có điện thờ. Năm 1899, Vua Thành Thái cho xây thêm điện Long Ân bên phải lăng mộ để làm nơi thờ cúng Vua Dục Đức.
Năm 1892, Vua Dục Đức được Vua Thành Thái truy tôn là Cung Tông Huệ hoàng đế. Tuy nhiên, do bị phế truất, nên linh vị của ông không được đưa vào thờ trong Thế Tổ Miếu ở Đại Nội Huế như các vị Vua triều Nguyễn khác.
Gia quyến Vua Dục Đức
Vua Dục Đức có mấy vợ?
Vua Dục Đức có 8 bà vợ, nhưng sử sách chỉ nhắc nhiều đến bà Phan Thị Điều, là mẹ của Vua Thành Thái và Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán. Những bà còn lại không rõ tên.
Vợ Vua Dục Đức là ai?
Vợ Vua Dục Đức là bà Phan Thị Điều (8/9/1855 – 27/12/1906). Bà là người Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi Vua Dục Đức bị phế truất, bà và hai con phải về quê sống. Sau này, Vua Thành Thái lên ngôi mới đón mẹ và các anh chị em vào cung. Sau khi mất, bà được truy phong làm Từ Minh Huệ Hoàng hậu.
Vua Dục Đức có bao nhiêu con?
Vua Dục Đức có 19 người con, gồm 11 hoàng tử và 8 hoàng nữ. Ngoại trừ hoàng tử Thành Thái và Bửu Tán, những người con còn lại của Vua Dục Đức đều không rõ mẹ.
Con Vua Dục Đức là ai?
Con trai Vua Dục Đức gồm có:
- Nguyễn Phúc Bửu Cương (22/12/1871 – 7/10/1876).
- Nguyễn Phúc Bửu Trĩ (2/9/1872 – 1/10/1878).
- Nguyễn Phúc Bửu Mỹ (24/11/1874 – 2/9/1877).
- Nguyễn Phúc Bửu Nga (8/9/1875 – 14/11/1876).
- Nguyễn Phúc Bửu Nghi (6/11/1876 – 9/4/1877).
- Nguyễn Phúc Bửu Côn (22/11/1877 – 21/11/1880).
- Nguyễn Phúc Bửu Lân (Vua Thành Thái) (14/3/1879 – 20/3/1954).
- Nguyễn Phúc Bửu Chuẩn (9/2/1882 – 13/12/1884).
- Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán (1882 – 8/5/1941).
- Hoài Ân vương Nguyễn Phúc Bửu Liêm.
- Mỹ Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Lỗi (19/4/1884 – 20/5/1902).
Con gái của Vua Dục Đức gồm có:
- Mỹ Lương Trưởng công chúa Nguyễn Phúc Tôn Thụy (1872 – 1917).
- Phúc Lâm Công chúa Nguyễn Phúc Nhàn Gia (? – 1925).
- Nguyễn Phúc Như Tâm.
- Nguyễn Phúc Thị Nghị.
- Nguyễn Phúc Học Giá.
- Nguyễn Phúc Mẫn Sự.
- Nguyễn Phúc Thông Lư.
- Tân Phong công chúa Nguyễn Phúc Châu Hoàn (1883 – ?).
Bài viết trên của Chúng Tôi đã chia sẻ đến bạn thông tin về Dục Đức là ai và cuộc đời bi kịch của vị Vua thứ năm triều Nguyễn. Cập nhật Chúng Tôi để theo dõi những tin tức mới nhất mỗi ngày nhé!
Trên quãng đường lịch sử dài của Việt Nam, có rất nhiều vị vua đã trải qua những biến cố oan trái và số phận bi thảm. Trong số đó, ông vua Dục Đức có lẽ là một trong những người mang số phận đáng thương nhất. Dục Đức không chỉ là một vị vua bị lật đổ một cách bạo lực, mà còn phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn khi bị nhục nhã, xỉ nhục và bị ép buộc phải uống thuốc độc khiến ông mất mạng.
Ông Dục Đức, hay còn gọi là Nguyễn Đình Chiểu, là vị vua thứ 8 của triều Nguyễn và lên ngôi vào năm 1883. Ông chỉ trị trong một thời kỳ khó khăn và cận kề của triều đình, khi cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Nam ngày càng căng thẳng. Ông đã cố gắng duy trì lòng yêu nước và sự đồng minh với các tướng lĩnh truyền thống, nhưng không may mắn thôi, ông không thể đối đầu với sự quân bách của quân xâm lược Pháp.
Sự sụp đổ của Dục Đức bắt đầu từ cuộc đảo chính do yêu cầu của Pháp, khi bộ đội Pháp tiến vào cung điện đòi lấy Quốc công này ra ngoài. Dục Đức bị trói tay và bắt ở một nơi hẻo lánh, bị cướp đi quyền lực và bị giam cầm các thân phận công việc của nhà vua. Thậm chí ông đã bị ép buộc uống thuốc độc trong một nghi lễ giả để chứng tỏ rằng ông đã “tự tử”. Cuộc đời và sự kết thúc bi thảm của Dục Đức đã chứng minh rằng dục đức không phải là một siêu nhân bất diệt mà là một con người yếu đuối trước sự tàn bạo của thế lực đối đầu.
Tuyệt vọng và cô đơn, Dục Đức là một ví dụ cho bất công và sự bạo lực trong lịch sử Việt Nam. Số phận bi thảm của ông nêu lên một câu chuyện đau lòng về cuộc chiến tranh và sự xâm lược của người ngoại quốc. Đồng thời, nó cũng là một lời nhắc nhở để khẳng định tinh thần đoàn kết và yêu nước trong mỗi người dân.
Dục Đức là ai? Ông là một vị vua đáng thương, người đã trải qua nhiều khó khăn và đau khổ trong cuộc sống và cuối cùng đã chết một cái chết bi thảm. Sự kiên cường và lòng yêu nước của ông còn sống mãi trong trái tim của những người biết đến và nhớ về ông, và câu chuyện của ông nên được lưu giữ và truyền tải để nhắc nhở chúng ta giữ gìn và vươn lên trước mọi khó khăn và hiểu rằng tình yêu nước là một giá trị quý báu mà chúng ta không bao giờ nên phớt lờ.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Dục Đức là ai? Xót thương ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.
Từ Khoá Liên Quan:
1. Dục Đức
2. Số phận bi thảm
3. Ông Vua
4. Chúa Tổ
5. Hoàng đế
6. Vị Vua
7. Biển đồng
8. Văn Bạch Dương
9. Tâm phúc
10. Đế quốc
11. Dục Đức triều đại
12. Xá tội
13. Chấp chưởng
14. Đền thờ
15. Lăng mộ