Bạn đang xem bài viết Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, tên thật của ông là Nguyễn Thắng, sinh năm 1935 quê ở làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Nguyễn Khuyến là một người có phẩm chất trong sạch, mặc dù làm quan nhưng ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, không tham ô, hối lộ của cải. Nhiều người ca tụng về đời sống và sự gắn bó của ông với nhân dân.
Ông được người dân yêu quý vì có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Sống trong thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến đã bất lực trước hoàn cảnh đất nước nên ông đã xin cáo lão về quê ở ẩn.
Nói về thơ thì trong thể loại thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, thấm đẫm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Về thể loại thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến hầu hết là những bài thơ trữ tình lãng mạn. Chúng ta hãy cùng xem qua những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến để biết rõ hơn về chất thơ cũng như nghệ thuật trong những lời thơ đỉnh cao của ông như thế nào nhé.
Top 30 bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến – thơ chữ Hán
1. Tuý ngâm
Dục tri tuý ông lỗi lạc chi kỳ tài,
Dã tu nhất ẩm tam bách bôi.
Hữu thì thổ mạt tác vân vũ,
Diệc hoặc tranh nhãn vi phong lôi.
Lý Bạch bộ kình sự phi đản,
Bành Trạch thái cúc tâm bất quai.
Thế gian dục tuý tuý bất đắc,
Toán lai vạn sự câu trần ai.
2. Xuân dạ liên nga
Tiện nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn,
Đầu minh nhi tử tử nhi an.
Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị,
Đáo đắc thuân tuần biện diệc nan.
Tố phú tri năng do vị dẫn.
Đương tiền danh lợi bất tương quan.
Cô đăng sát nhĩ do liên nhĩ.
Đáo đắc thành hôi lệ vị can.
3. Khóc Dương Khuê
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
4. Hạ nhật
Khinh phong nộn thử hạ chi sơ,
Đại tuý cuồng ngâm độc hữu dư.
Thị phụ thừa bàn cung thục lệ,
Điền ông phát cẩu mại tiên ngư.
Túc tinh sạ khởi nhất văn trĩ,
Cựu cú vị vong tần kiểm thư.
Bồng tất thử gian dung lão bệnh,
Thê thê trần lộ cánh hà như?
5. Độc thán
Thập niên hồi thủ độc sầu dư,
Thế sự nhân tình tiệm bất như.
Đồng loại tương tranh trúc phược trúc,
Lợi tâm vô yếm ngư thôn ngư.
Khả liên kim nhật thuỳ vi ngạnh,
Sở dĩ tiền nhân dục phế thư.
Ký ngữ thành môn tương thức giả,
Phong trần mãn lộ vị quy dư.
6. Giáp giang
Giáp giang trùng lai lộ,
Tà dương nhất trạo khinh.
Quần âu nhập dạ hắc,
Viễn tụ bán không thanh.
Phong cấp kinh ngư đĩnh,
Sa thâm trệ khách trình.
Lữ hoài vô liểu xứ,
Tận nhật hải đào thanh.
7. Sơ hạ
Tạc dạ trì biên sinh nộn hà,
Thần song bất giác hạ sơ qua.
Bán không phong dẫn diên ngâm địch,
Kỷ xứ chi tàng ương lộng ca.
Ấp phụ tương tranh ngôn ngữ tục,
Lân quan bất mị tính tình đa.
Du nhiên phù trượng dục thừa hứng,
Mãn nhãn trần ai nại nhĩ hà?
8. Ngán đời
Nghĩ đời mà cũng ngán cho đời
Câu cóp làm sao được với trời?
Chép miệng, lớn đầu to cái dại
Phờ râu, chịu đấm mất phần xôi
Được, thua, hơn, kém, lưng hồ rượu
Hay, dở, khen, chê, một trận cười
Dựa gối bên song toan hoá bướm
Gió thu lạnh lẽo, lá vông rơi
9. Than nghèo
Chẳng khôn cũng biết một hai điều
Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo.
Danh giá dường này không nhẽ bán,
Nhân duyên đến thế hãy còn theo.
Tấm lòng nhi nữ không là mấy,
Bực chí anh hùng lúc túng tiêu.
Có lẽ phong trần đâu thế mãi,
Chốn này tình phụ, chốn kia yêu.
10. Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư
Dĩ hĩ Dương đại niên,
Vân thụ tâm huyền huyền.
Hồi ức đăng khoa hậu,
Dữ quân thần tịch liên.
Tương kính thả tương ái,
Tao phùng như túc duyên.
Hữu thời xuất kinh lộ,
Không san văn lạc tuyền.
Hữu thời thượng cao các,
Ca nhi minh tố huyền.
Hữu thời đối quân ẩm,
Đại bạch phù bát duyên.
Hữu thời dữ luận văn,
Đông bích la giản biên.
Ách vận phùng dương cửu,
Đấu thăng phi tham thiên.
Dư lão công diệc lão,
Giải tổ quy điền viên.
Vãng lai bất sổ đắc,
Nhất ngộ tam niên tiền.
Chấp thủ vấn suy kiện,
Ngữ ngôn thù vị khiên.
Công niên thiểu dư tuế,
Dư bệnh nghi công tiên.
Hốt văn công phó chí,
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên.
Dư khởi bất yếm thế,
Nhi công tranh thượng tiên.
Hữu tửu vi thuỳ mãi,
Bất mãi phi vô tiền.
Hữu thi vi thuỳ tả,
Bất tả vi vô tiên.
Trần Phồn tháp bất hạ,
Bá Nha cầm diệc nhiên.
Công ký khí dư khứ,
Dư diệc bất công liên.
Lão nhân khốc vô lệ,
Hà tất cưỡng nhi liên.
11. Thu ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.
Độ năm ba chén đã say nhè.
12. Thu dạ châm thanh
Canh thâm sương trọng Án cừu khinh,
Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh.
Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng,
Tuỳ phong đoạn tục bán trùng thanh.
Kinh hồi thú phụ Tương Thành mộng,
Hoán khởi chinh phu nguỵ khuyết tình.
Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc,
Viễn sơn hà xứ hựu chung minh.
13. Cuốc kêu cảm hứng
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
14. Điền tẩu
Ngô thôn nhất điền tẩu,
Gia hữu tam thập cú.
Mộ hạ thần phát chi,
Ngư hà đắc ngũ đẩu.
Nhược bất lao nhĩ thân,
Hà dĩ hồ nhĩ khẩu.
Mại ngư mãi mễ quy,
Thực bãi hựu bôn tẩu.
15. Đề ảnh
Ngô nhiễn ngô diện bì,
Ngô tâm ngô phất trị.
Nhật nguyệt tu thiêm bạch,
Phong trần sắc tiệm tuy.
Bách bôi hình tặng ảnh,
Thiên tả ngã vị tuỳ.
Ngưỡng phủ phất hà tưởng,
Yên ba vô tận kỳ.
16. Đông chí
Vân tẩu phong phi sương mãn thiên,
Quang âm tòng thử nhập tân niên.
Xuân hồi cựu kính điểu tri vị,
Thụ phá tân nha hoa dục nhiên.
Áp muộn nhật tương thuần tửu chước,
Uý hàn dạ bão hoả lô miên.
Cận lai lãn hướng tây viên thượng,
Cưỡng khởi phù cung khán thuỷ tiên.
17. Tiểu thán
Lịch duyệt phong sương bán bạch đầu,
Nhất quan hạnh đắc lão nhi hưu.
Thế đồ kim hựu đa khả khảm,
Lợi cục nan năng quả oán vưu.
Vi ngã chung hữu khích,
Thức nhân tích tằng ưu.
Bách bôi diệc vị vong tình giả,
Mạc quái môn tiền.
18. Trùng dương bất vũ
Trùng dương bất vũ vị tư ta,
Sắt sắt tây phong nại nhĩ hà.
Hữu khách tống lai hoàng cúc tửu,
Vô nhân khai đắc đỗ quyên hoa.
Bán sơn đảo ảnh tần di hạm,
Vạn lý minh hồng vị định gia.
Bệnh nhãn kiêm chi trần nhiễu thậm,
Bế môn bất xuất diệc hàm ca.
19. Thu sơn tiêu vọng
Bát diện thôn khư nhất đính cô,
Tài đăng vạn tượng nhập trung đô.
Phong khinh vân lộng Thường Nga ảnh,
Vụ tễ thiên cao Bắc Đẩu khu.
Phẩm vật nhất thiên kim thế giới,
Giang sơn tứ cố ngọc dư đồ.
Sương minh hà xứ thu thanh đáp,
Hoán khởi Âu Dương tháo tứ tô.
20. Thất tịch ô
Chiêm ô chỉ thuỳ ốc,
Hồ vi đầu đính thốc.
Tương truyền giá ngân kiều,
Niên niên thậm lao lục.
Tha xứ khởi vô cầm,
Hà nhĩ thiên thụ độc.
Nãi tri thu phong nghiêm,
Thiên thượng lệnh diệc khốc.
21. Thiền sư
Nhân vị tiên sinh ái ngã nhi,
Ái nhi chi mẫu hữu thuỳ tri.
Giá kiều cựu cú phi vô vị,
Lãm kính tiền nhân chỉ tự bi.
Chỉ khủng thế gian vô quả phụ,
Mạc ngôn thiên hạ khiếm thiền sư.
Ái sư dục vị ái nhi giáo,
Giáo đắc nhi thành mẫu hựu si.
22. Sơn trà
Xuân lai khách tặng ngã sơn trà,
Tuý lý mông lung bất biện hoa.
Bạch phát thương nhan, ngô lão hĩ,
Hồng bào kim đới, tử chân da?
Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp,
Tiêu sắt thần phong oán lạc già.
Cận nhật tương khan duy dĩ tỵ,
Liễu vô hương khí nhất kha kha!
23. Văn Tống quận công phó hữu cảm
Khí nghiệp thuỳ như Tống quận công,
Y quan thử khứ cánh thành không.
Y Chu Quản Cát thiên thu hậu,
Hán Sở Tuỳ Đường nhất mộng trung.
Nhược sử cửu kinh giai khả tác,
Vị tri đương thế thục vi hùng.
Khả liên thế thái viêm lương thậm,
Khô trúc từ tiền kỷ cúc cung.
24. Tửu
Thiên sinh ẩm thực thế giai nhiên,
Nghi Địch ưng vi nhất tiểu thiên.
Nghiêu Thuấn dĩ tiền vô Tửu cáo,
Thương Chu chi hậu hữu Tân diên.
Nhược giao khúc bách phi giai phẩm,
Hà dĩ văn chương cánh biệt truyền.
Ngô đạo chí kim tiêu tác thậm,
Huề hồ độc thử tuý trung tiên.
25. Cảm sự
Phong tế trần ô hà xứ lai,
Nhật quang câu ảnh đệ tương thôi.
Yên phi giang thượng chu như điện,
Thạch lạc sơn gian pháo tự lôi.
Thế hữu thi thư vô sở dụng,
Thiên sinh thuỷ hoả các vi tài.
Độc cùng ngũ đại doanh hoàn ký,
Thuỷ tín hàn tuyền hữu kiếp hôi.
26. Cảm tác
Mặc thụ đồng chương thập nhị niên,
Thử thân nhật vọng thánh triều liên.
Bệnh nhân đa sự thả hưu hĩ,
Phúc hữu nhất xan do quả nhiên.
Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy gia vị tất tử tôn hiền.
Mông lung bả trản tòng kim sự,
Chỉ khủng di ô đáo giản biên!
27. Dục Thúy sơn
Non xanh có từ muôn thuở xưa,
Tên Dục Thuý năm nào mới đặt?
Toà thành đứng trơ vơ trên cao ngàn thước,
Một ngôi chùa nhô ra giữa dòng sông.
Nhà sư Tuệ Viễn nay ở đâu?
Ông Thăng Phủ vẫn còn bia khắc đó.
Bóng tà gợi lên những ý tình hoài cổ,
Thánh thót đôi ba tiếng chim chiều.
28. Đại mại sơ
Kỳ trân sản xuất Lý Sơn châu,
Cân tứ truy tuỳ nhị thập thu.
Thử vật tự tòng quy ngã thủ,
Nhất sinh kỳ hợp thướng nhân đầu.
Hoàng trần tảo đãng quy tàn xỉ,
Bạch phát bồng tùng độc ẩn ưu.
Kỳ thử trinh tâm kham cộng thưởng,
Hà duy văn thái tự minh châu.
29. Đạo thất đạo
Đạo hướng nhân gia xuyên thủ tiền,
Đạo nhân hựu hướng đạo gia xuyên.
Doanh thâu thiên chuyển vô thường cục,
Xuất nhập tuần hoàn nhược túc duyên.
Hoá phạp Ngạn Phương hưu tứ bạch,
Hạnh phi Vương Tố mạc đầu chuyên.
Lợi đồ đáo để hỗn như thị,
Hề độc xuyên tường đạo nãi nhiên.
30. Đảo vũ
Nghinh thần dĩ tam nhật,
Bất vũ thần hựu quy.
Tiền giả trương thuý cái,
Hậu giả phụng minh ty.
Dân nộ trách chư thần:
“Thần phi dân hà y?
Bất vũ hà bất cáo,
Sử dân lao thả ky?”
Thần viết: “Lai nhữ dân:
Thử phi ngã sở tri!
Ngô duy thị ẩm thực,
Vũ phi ngô năng vi”.
Thần kim thả như thử,
Ư dân phục hề nghi?
Top 30 bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến – thơ chữ Nôm
1. Cảnh già
Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây,
Phút chốc mà già đã đến ngay.
Mái tóc chòm đen, chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say.
Ông ngẫm mình ông thêm ngán nỗi:
Đi đâu, giở những cối cùng chày.
2. Cảnh tết
Năm ngoái, năm kia đói muốn chết,
Năm nay phong lưu đã ra phết!
Thóc mùa, thóc chiêm hãy còn nhiều
Tiền nợ, tiền công chưa trả hết.
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt.
Ta ước gì được mãi như thế,
Hễ hết Tết rồi, thời lại Tết!
3. Chợ Đồng
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không ?
Dở trời, mựa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền được mấy ông ?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.
4. Hoài cổ
Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.
5. Bạn đến chơi nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
6. Anh giả điếc
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc,
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc,
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à!
7. Ăn mày
Gõ cửa làm chi quấy cả ngày,
Hỏi ra mới biết lão ăn mày.
Ăn mày chớ có ăn tao nhé,
Gạo kém, đồng khô thế mới rầy.
8. Bài hát ru em
Hạ hơi hơi, hạ hời hời,
Nam nhi đứng ở trên đời,
Thông minh tai mắt là người trần gian.
Tang tình tang, tịnh tình tang,
Em thơ chị ẵm, em ngoan chị bồng.
Màn Đồng Tử, gối Ôn Công,
Lớn lên em phải ra công học hành.
Xinh ghê xinh gớm là xinh,
Tình tính tinh,
Sớm khuya cửa Khổng, sân Trình,
Dốc lòng nấu sử sôi kinh chớ rời.
Hạ hơi hơi, hạ hời hời,
Học là học đạo làm người,
Làm người phải giữ lẽ trời dám sai.
Làm trai cho đáng nên trai,
Ngày một, ngày hai,
Chớ đừng nay lại ngày mai,
Chớ đừng đi nghịch cho phai lòng vàng
Ngoan ngoan, ngoan thực là ngoan,
Bé cần học, lớn làm quan,
Khắp triều chu tử, đều làng thi thư.
Ư ư giữ khư khư,
Chiêu ư tư, tịch ư tư,
Văn chương thầy nước, thi thư báu nhà.
Ạ a a,
Ghê thậm là ghê,
Có công cách tri tu tề,
Khốn quẫn cũng biết, ngu si cũng hiền.
Khuyên khuyên khuyên thực là khuyên,
Lẻn lèn len,
Hễ mà có chí thì nên
Cầu kiều đã bắc dịp lên đấy rồi.
Đi chơi, chớ có đi chơi,
Chị khuyên em, em phải nghe lời,
Chim hằng bay,
Nga hằng lội,
Đáp cao núi Thái, tát vơi sông Thù,
Ru hời ru hỡi tình ru,
Cu cu hề cu cu,
Chèo thuyền đến bến thầy Chu,
Bút nghiên làm dấu võng dù cân đai.
Rõ bảng rõ bài,
Tranh khôi đoại giáp dễ nhường ai,
Chị Hằng Nga vốn yêu người niên thiếu,
Chuyên chuyên, em học cho chuyên,
Hi thánh hi hiền,
Kìa người tiến sĩ, trạng nguyên,
Cũng là học vấn cần chuyên những ngày.
Hay hay thế mới là hay,
Này đây này,
Cửa trời mở rộng đường mây,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Chị yêu em!
Nhẻm nhèm nhem,
Nắm nem không thèm,
Một nhà đầm ấm ơn trên,
Mở giòng phiệt duyệt, rộng nền tổ tông,
Sênh sang áo phượng sân rồng,
Bõ công cha mẹ vẫy vùng áo xiêm,
Em ơi em hỡi em hời!
Muốn nên tai mắt ở đời,
Thì em phải nhớ lấy lời chị ru.
Ru hời ru hỡi tình ru!
9. Cá chép vượt đăng
Cá thần vùng vẫy vượt qua đăng,
Được nước, nào ai dám rỉ răng?
Cưỡi gió giương vây lên cửa Vũ,
Xông mây rẽ sóng động vừng trăng,
Giếc, rô ngứa vẩy khôn tìm lối,
Trê, chuối theo đuôi dễ mấy thằng!
Gặp hội hoá rồng nơi chót vót
Đã lên, bay bổng tít bao chừng?
10. Cảm hứng tuổi già
Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay,
Ông gẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ!
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa? Thưa rằng được.
Chén rượu say rồi. Nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.
11. Châu chấu đá voi
Châu chấu làm sao dám đá voi,
Đứng xem ta cũng nực cơn cười.
Loe xoe sấn lại dương đôi vế,
Ngứa ngáy không hề động nửa đuôi.
Hay giở cuộc này ba chén rượu,
Được thua chuyện ấy một trò chơi.
Nghĩ ra ta cũng thương mình nhỉ,
Theo đít còn hơn một lũ ruồi!
12. Câu cá mùa thu – Thu Điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
13. Ngán đời
Nghĩ đời mà cũng ngán cho đời
Câu cóp làm sao được với trời?
Chép miệng, lớn đầu to cái dại
Phờ râu, chịu đấm mất phần xôi
Được, thua, hơn, kém, lưng hồ rượu
Hay, dở, khen, chê, một trận cười
Dựa gối bên song toan hoá bướm
Gió thu lạnh lẽo, lá vông rơi.
14. Mẹ Mốc
So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc, cũng thêm ra.
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim.
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn em dễ bán dại này!
15. Lên lão
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm nay ông cũng lão đây mà.
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy ra.
16. Khuyên vợ cả
Ta chẳng như ai lối nguyệt hoa
Trước là ngẫm nghĩ nỗi gần xa:
Lấy năm thì cũng dành ngôi chính,
Dấu bảy càng thêm vững việc nhà.
Mọi việc cửa nhà là việc nó
Mấy con trai gái ấy con ta.
Thôi đừng nghĩ sự chi chi cả:
Chẳng chữ gì hơn chữ thuận hoà!
17. Đưa người làm mối
Tri âm xin tỏ với tri âm,
Một tỉnh tình tinh miệng lỡ lầm;
Nhấp nhoáng hạt trai ngờ hổ phách,
Mơ màng núc nác ngỡ vàng tâm!
Bắn tin bướm nhạn hoa còn đỏ,
Nghe nói vườn xuân sắc đã thâm.
Nhắn nhủ bà hàng đừng đóng ghế,
Bầu non kia đã phải ong châm.
18. Đêm mùa hạ
Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thực oi ả,
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy biết cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhắp năm canh chầy,
Gà đà sớm giục giã.
19. Đề ảnh tố nữ
Bao tuổi xuân xanh hỡi chị mình?
Xinh sao xinh khéo thực là xinh!
Hoa thơm chẳng nhuộm hương mà ngát,
Tuyết sạch không nề nước mới thanh.
Ngoài mặt đã đành son với phấn,
Trong lòng nào biết đỏ hay xanh?
Người xinh, cái bóng tình tinh cũng…
Mỗi bút một thêm một điểm tình!
20. Duyên nợ
Mưỡu:
Cái duyên hay cái nợ nần,
Khi xa xa lắc, khi gần gần ghê.
Dấu hồng còn gửi tuyết nê,
Khi bay nào biết đông tê bóng hồng.
Nói:
Giai nhân nan tái đắc,
Mười ba năm một giấc bâng khuâng.
Động hơi thu chợt nhớ đến vầng trăng,
Chén non nước tưởng chừng đâu bửa nọ.
Quá nhãn quang âm quân dĩ ngộ,
Thiếu thời phong độ ngã do liên.
Lại may mà gió mát đưa duyên,
Mượn thơ thánh, đàn tiên khuây chuyện cũ.
Đối tửu mạc đề ly biệt cú,
Chốn non Vu vân vũ hãy đi về.
Cánh hồng nào biết đông tê.
21. Cua chơi trăng
Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
Cung quế chờn vờn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?
22. Chơi chợ trời Hương Tích
Ai đi Hương Tích chợ trời đi!
Chợ họp quanh năm cả bốn thì.
Đổi chác người tiên cùng khách bụt,
Bán buôn gió chị lại trăng dì.
Yến anh chào khách nhà mây toả,
Hoa quả bày hàng điếm cỏ che.
Giá áo, lợn, tằm, tiền, gạo đủ,
Bán mua mặc ý muốn chi chi.
23. Chơi núi non nước
Chom chỏm trên sông đá một hòn,
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ,
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch,
Hòn câu Thái phó tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già giặn,
Trời dẫu già, nhưng núi vẫn non.
24. Chơi thuyền Hồ Tây (Chơi Tây Hồ)
Thuyền lan nhè nhẹ.
Một con thuyền đủng đỉnh dạo Hồ Tây.
Sóng rập rờn sắc nước lẩn chiều mây,
Bát ngát nhẽ dễ trêu người du lãm.
Yên thuỷ mang mang vô hạn cảm,
Ngư long tịch tịch thục đồng tâm.
Rượu lưng bầu, mong mỏi bạn tri âm.
Xuân vắng vẻ, biết cùng ai ngâm hoạ?
Gió hây hẩy bõng nức mùi hương xạ,
Nhác trông lên, vách phấn đã đôi bài.
Thơ ai, xin hoạ một vài.
25. Hỏi đá
Bao nả giang sơn một gánh tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn;
Biết chăng chỉ có ông Hà bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non.
26. Lên lão
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm nay ông cũng lão đây mà.
Anh em, làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta.
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy ra.
27. Mua quan tài
Ba vua bốn chúa bảy thằng con,
Thắm thoát xuân thu bảy chục tròn.
Ơn nước chưa đền danh cũng hổ,
Quan tài sẵn có chết thì chôn.
Giang hồ lang miếu trời đôi ngả,
Bị gậy cân đai đất một hòn.
Cũng muốn sống thêm mươi tuổi nữa,
Sợ ông Bành Tổ tống đồng môn.
28. Nước lụt Hà Nam
Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
Gạo dăm ba bát cơ còn kém,
Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.
Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng.
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.
Đi đâu cũng thấy người ta nói,
Mười chín năm nay lại cát bồi.
29. Phú đắc
Bà già đã bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng.
Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao ?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng,
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
Chữ nhất nhi chung đành đã vậy,
Câu tam bất hiếu nữa làm sao ?
May mà chim được ông chồng trẻ,
Họa có sinh ra được chút nào ?
30. Bồ tiên thi
Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò,
“Bồ tiên thi” lại lấy vần bồ.
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn vòi xu!
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.
>>> Xem thêm: Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Bính trở nên “bất tử”
Đây là những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hi vọng những chia sẻ trên đây sẽ hữu ích với các bạn và giúp bạn bổ sung thêm vào bộ sưu tập thơ của mình những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Khuyến tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.