Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia Cảnh đám ma gương mẫu hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia tổng hợp 11 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Với 11 mẫu phân tích cảnh đám ma gương mẫu mà Thcslytutrongst.edu.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn lớp 11 tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.
Cảnh đám ma gương mẫu có một không hai đã phơi bày đến tận cùng những cái xấu xa, giả tạo của những con người thuộc tầng lớp trên của xã hội. Vậy dưới đây là TOP 11 bài văn mẫu phân tích cảnh đám ma gương mẫu, mời các bạn cùng đón đọc.
Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia
- Dàn ý phân tích cảnh đám ma gương mẫu (3 Mẫu)
- Các luận điểm chính trong Cảnh đám ma gương mẫu
- Cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia (8 Mẫu)
- Phân tích cảnh đám ma gương mẫu (3 Mẫu)
Dàn ý phân tích cảnh đám ma gương mẫu
Dàn ý chi tiết số 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Cảnh “đám ma gương mẫu” trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia không chỉ mang đến tiếng cười hài hước, hóm hỉnh mà tiếng khóc than của những giá trị đạo đức bị băng hoại.
2. Thân bài
– Nghịch lí của đoạn trích được thể hiện ngay trong nhan đề của chương “Hạnh phúc của một tang gia”.
–> Từ bao giờ mà một đám tang lại có thể mang đến niềm hạnh phúc cho con người?
– Đám tang của cụ cố Tổ lại thật đặc biệt với những nghi thức lạ lùng, không khí náo nhiệt như trong đám hội.
- Nghi lễ đám ma có sự xuất hiện theo lối Tây, Ta, Tàu.
- Tiếng khóc của người thân trong gia đình thì chìm nghỉm trong tiếng nói chuyện, cười đùa đầy lố lăng của đám thanh niên nam nữ, của những người tham dự đám ma.
–> Đám ma dường như mất đi không khí thông thường mà trở nên hỗn độn, hài hước như một sân khấu rộng lớn, nơi có rất nhiều diễn viên cùng nhau hoàn thành một vở kịch đầy giả tạo.
– Cảnh hạ huyệt là đỉnh cao của bút pháp trào phúng, nơi những nhân vật trong đoạn trích tự bóc trần mặt nạ giả dối của mình.
- Cậu Tú Tân vì muốn thể hiện tài năng chụp ảnh mà nhảy hết lên ngôi mộ này đến ngôi mộ khác để tự đạo diễn cho cuốn phim của mình.
- Cụ cố Hồng vui mừng, hạnh phúc vì được mặc áo xô gai, chống gậy nhưng đến khi hạ huyết cũng đã dốc hết sức để diễn vai của một người con có hiếu, cố Hồng khóc đến lả người đi.
- Trong không khí huyên náo ấy còn xuất hiện một tiếng khóc đặc biệt khiến người đọc cười ra nước mắt, đó chính là tiếng khóc của Phán Mọc Sừng
3. Kết bài
Có thể nói, đám ma của cụ cố Tổ là “đám ma gương mẫu”, đám ma có một không hai nơi phơi bày đến tận cùng những cái xấu xa, giả tạo của những con người thuộc tầng lớp trên của xã hội.
Dàn ý chi tiết số 2
1. Mở bài
– Giới thiệu ngắn gọn tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc một tang gia
– Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: cảnh đám ma gương mẫu
b. Thân bài
– Khái quát chung
– Phân tích
Cảnh đám ma gương mẫu được tổ chức long trọng, hoành tráng đúng ý muốn của cụ cố Hồng: đám ma tổ chức theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng và bú dích, và vòng hoa, ba trăm câu đối, vài trăm người đi đưa…
– Cảnh đưa đám:
Người đi đưa gồm những ông “tai to mặt lớn”, họ rất cảm động khi “trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Trong số những người đi đưa có rất nhiều những giai thanh gái lịch, họ thản nhiên chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… với vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám ma.
Đám đi qua bốn phố, đi đến đâu làm huyên náo đến đó. Bạn cậu tú Tân thi nhau chụp ảnh như ở hội chợ.
– Xuân Tóc Đỏ xuất hiện đúng lúc cùng với sáu chiếc xe và hai vòng hoa đồ sộ càng làm cho đám ma thêm nhốn nháo.
→ Cảnh đưa đám có vẻ ngoài long trọng nhưng chẳng khác gì một đám rước lố lăng, vô văn hóa của những con người vô đạo đức.
– Đỉnh cao của đám ma là cảnh hạ huyệt:
- Cậu tú Tân bắt bẻ mọi người tạo dáng để chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt, bạn của cậu nhảy lên các nấm mộ khác để chụp cho ảnh khỏi giống nhau.
- Ông Phán mọc sừng oặt người đi khóc mãi không thôi và dúi vào tay Xuân một cái giấy bạc năm đồng gấp tư.
– Nghệ thuật:
- Miêu tả từ xa đến gần, kết hợp giữa âm thanh, màu sắc. Sử dụng điệp ngữ Đám cứ đi…
- Nghệ thuật tương phản, đối lập, khắc họa chân dung biếm họa. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm.
c. Kết bài
– Nhận xét, đánh giá chung về giá trị của vấn đề
– Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân
Dàn ý chi tiết số 3
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Vũ Trọng Phụng
- Giới thiệu về tác phẩm “Số đỏ” và dẫn dắt vào đoạn tả cảnh đám ma gương mẫu
2. Thân bài
- Vị trí của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”
- Toàn bộ đoạn trích là một chuỗi cười kéo dài khi cái chết lại trở thành niềm vui, hạnh phúc của nhiều người
- Cảnh đám ma: Hoành tráng, rùm beng với không khí tưng bừng chẳng kém gì lễ hội, gây được sự chú ý của bàn dân thiên hạ
- Người dự đám ma: Đến để khoe mẽ, thị uy, chim chuột, chê bai, bình phẩm, bàn tán nói chuyện rôm rả
- Cảnh hạ huyệt: Đỉnh cao của sự trào phúng
=> Một bức tranh sống động với đủ mọi loại sắc thái biểu cảm. Giọng văn vừa sâu cay, vừa bỡn cợt lại có phần chua chát của Vũ Trọng Phụng đang giáng một đòn đánh mạnh vào sự tha hóa của xã hội, mà ở đó lũ người lố lăng lấy cái chết làm niềm vui, lấy đau thương làm sự phô bày.
3. Kết bài
- Ngòi bút châm biếm sâu cay
- Sự “chó đểu” của cả một xã hội dột nát về nhân cách đã được thể hiện xuất sắc qua cảnh đám ma gương mẫu trong đoạn trích
Sơ đồ tư duy Cảnh đám ma gương mẫu
Các luận điểm chính trong Cảnh đám ma gương mẫu
Cảnh đám ma gương mẫu qua ngòi bút châm biếm của tác giả:
– Bằng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua những chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi của lối sống văn minh rởm đời. Đám ma được dựng lên hết sức to tát, long trọng có thể nói ở Hà Thành trước đây chưa từng có. Một đám ma được tiến hành theo cả lối Ta, lối Tàu, lối Tây… có đầy đủ những lớp người thượng lưu ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng.
– Thực chất núp sau sự to tát, danh giá, long trọng ấy là những sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh, háo thắng… của một lớp người trong xã hội thượng lưu lúc bấy giờ. Điều này được thể hiện qua những chi tiết đưa tang thật hổ lốn đến buồn cười; khiến tác giả phải đưa ra một câu văn nhận xét thể hiện sự trào lộng, mỉa mai đến cực độ: thật là một đám ma to tát có thể làm cho người nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!
– Ngoài các yếu tố gây mâu thuẫn để thể hiện chất trào phúng, tác giả còn sử dụng biện pháp phóng đại. Nhân vật được phóng đại với những hình dáng thật lố bịch, dị hợm. Chân dung của bọn người mang danh thượng lưu, văn minh được khắc họa mỗi người một nét, tất cả đều hiện hình thật sống động, nhốn nháo: những ông bạn của cụ cố Hồng – đại diện cho những vị tai to mặt lớn của xã hội thượng lưu dự tang để được khoe huân chương, khoe râu… và thật lố bịch, vô liêm sỉ biết bao khi cứ nhìn chằm chằm vào làn da trắng thập thò sau làn áo voan mỏng trên cánh tay và ngực của cô Tuyết; hàng trăm nam thanh nữ tú ăn mặc mô đen, hợp thời đang cố ý tỏ ra buồn rầu nhưng chỉ ít phút sau lại nghe thấy họ cười tình với nhau, hẹn hò, nói chuyện ghen tuông, bình luận về những câu chuyện nhảm nhí… Tất cả đều biểu lộ mọi góc cạnh của cái tính vô văn hóa, vô đạo đức của bọn người cặn bã trong xã hội tư sản thành thị lúc bấy giờ.
Cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 1
Cảnh đám ma gương mẫu nằm ở chương XV của tiểu thuyết “Sổ đỏ”, được đặt nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”. Những trang viết là những màn hài kịch kéo dài của đám đông nhố nhăng, dị hợm. Có lẽ chưa từng có một đám tang như thế, nơi mà cái chết trở thành niềm vui, hạnh phúc của nhiều người, nơi mà người ta xem là dị khoe mẽ, là dịp phô bày những lối lăng đồi bại. Nhưng đám ma ấy lại diễn ra giữa cái xã hội tư bản thành thị được xem là văn minh.
Phân tích cảnh đám ma gương mẫu có thể thấy, Vũ Trọng Phụng đã miêu tả một đám ma, nhưng lạ thường thấy nó lại vô cùng hoành tráng, lại tưng bừng không kém gì dịp lễ hội. Tại đám tang này, tất cả các phong cách đều xuất hiện, từ Ta, Tàu đến Tây, mọi thứ kết hợp trở thành một mớ lộn xộn. “Có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc soảng và bú dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ”. Với bấy đó thứ, đám ma này thực sự đã gây được sự chú ý, trầm trồ của thiên hạ theo ý cụ cố Hồng. Như Vũ Trọng Phụng đã viết thật sâu cay: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”.
Một đám ma thương mang không khí trầm buồn, xót thương, nhưng đám ma này đi đến đâu là gây huyên náo như một gánh xiếc đang quảng cáo để bán vé cho những màn trình diễn xiếc thú. Người đến tiễn người mất chỉ toàn là quan chức tai to mặt lớn, đến đám tang chỉ nhằm thể hiện cái uy danh của mình. Và mỉa thay cái tình huống những kẻ này đã xúc động khi “trông thấy một làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Đám tang nhưng tiếng kèn, tiếng người ta nói chuyện át cả tiếng khóc.
“Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, xong le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may”. Chưa hết, còn có “đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”. Thử hỏi có thứ “văn minh” nào lại đồi bại, dị hợm đến như thế.
Cái đám ma gương mẫu này như là dịp để đám con cháu khoe niềm hạnh phúc khi ông cụ cố mất. Người ta đưa đám ma diễu hành qua đến 4 con phố dài, càng đi lại càng náo nhiệt. Điểm lố lăng đỉnh điểm là sự xuất hiện của Xuân Tóc đỏ. Y đến với “sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai ngăn… Hai vòng hoa đồ sộ, một nhà báo Gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào hàng đầu”. Đây quả là một đám ma có một không hai, khi đến sư chùa, nhà báo cũng nên vào đám ma như hòa vào cuộc vui. Tất cả làm thành một gánh tạp kĩ đang tìm cách mua vui cho thiên hạ.
Đám ma nhưng tiếng khóc lại là thứ xa xỉ nhất. Rút cuộc ta phải tự hỏi, đây là đám viếng người chết là đám rước những kẻ đang sống? Và với giọng văn sâu cay, pha bỡn cợt lại không thiếu phần chua chát của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm đã giáng một đòn trực diện nhất vào sự tha hóa của bản chất người, của xã hội mà ở đó những kẻ lấy đám ma làm niềm vui luôn xem đó là môi trường văn minh.
Bởi thế, ngược đời làm sao, chua xót làm sao tang gia mà lại hạnh phúc, người khóc chẳng có nhưng lại lắm kẻ cười vui. Cái đám diễu hành cứ đi, cứ đi, khi cuộc vui đến hồi kết thì đám chưa dừng lại.
Cái đại tài của Vũ Trọng Phụng, sự trào phúng đỉnh cao của ngòi bút Vũ Trọng Phụng là lật cái mặt nạ giả dối của lũ con cháu trong cảnh hạ huyệt. Ở đó, cậu Tú Tân “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc còng lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau.” Cái cảnh “Xuân Tóc Ðỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”, thực là một màn hài kịch, nhưng cũng là bi kịch, bi kịch cho những kiếp người sống không có phẩm cách, lấy cái chết của người khác làm niềm vui. Một đám ma vì thế lại trở thành một bức tranh sống động không một sắc thái biểu cảm nào là không có.
Nghệ thuật nổi bật trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là nghệ thuật trào phúng rất sắc bén và sâu cay như chính phong cách sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Điều này thể hiện trọn vẹn ở các phương diện: tình huống trào phúng, nhân vật trào phúng và cảnh tượng trào phúng.
Tình huống trào phúng ở đây nằm ở sự ngược đời đó là, cái chết của cụ cố Hồng lại trở thành niềm hình phúc cho lũ con cháu. Cái đám tang của cụ trở thành phông nền cho đám con cháu bộc lộ bản chất khốn nạn của mình.
Về nhân vật trào phúng, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một hệ thống các nhân vật trào phúng với nhiều tính cách và mục đích khác nhau. Nhưng suy cho cùng, dù mục đích gì cũng đều là vì lợi ích cá nhân mà không mảy may xót thương cho cụ cố Hồng vừa nằm xuống.
Và có lẽ, đỉnh điểm của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm là ở cảnh tượng trào phúng – cảnh hạ huyệt. Với cảnh này, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã hoàn tất sứ mệnh là tái hiện và lên án gay gắt xã hội thượng lưu giả dối, tàn bạo, thối nát.
Với tiểu thuyết “Số đỏ” nói chung và đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nói riêng, Vũ Trọng Phụng thực sự phải khiến người người ngả mũ bởi cái bút lực châm biếm, bút lực trào phúng của ông. Phân tích cảnh đám ma gương mẫu mới thấy rằng, tác giả thật tài, tình đời làm sao khi viết nên một vở hài kịch diễn cảnh đám ma, để qua đó lột trần sự “chó đểu” của cái xã hội thối nát, lụi tàn về nhân cách.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 2
Với đặc điểm là một tiểu thuyết hoạt kê, tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đã miêu tả thật sống động bao nhiêu cảnh đời và con người mang tính hài hước, giễu cợt. Không chỉ một cuộc đời của nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ – đáng cười, mà hầu như tất cả các nhân vật, các tình huống, chi tiết truyện đều đáng cười, đáng phê phán.
Chương XV của tác phẩm với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia – miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của thế kỉ XX. Mỗi tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn…
Đọc tên chương – Nguyên văn trong tác phẩm là: Hạnh phúc của một tang gia – một cái đám ma gương mẫu… chúng ta không khỏi bật cười bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà tang gia lại có hạnh phúc! Việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tùy tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu, cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cười: đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám…. rước. Có người nhưng không phải là con người mà là…. những hình nhân dị dạng, những quái vật.
Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất – ông cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, Tây, Tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo… Kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng thì thầm về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói thì thào của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, than thở việc vợ béo, chồng gầy. Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như ở hội chợ. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: Đám cứ đi rồi lại đám cứ đi. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu.
Đỉnh cao màn kịch trào phúng của đám ma thì cảnh hạ huyệt lại là cao trào tập trung những mâu thuẫn đáng cười nhất. Tú Tân xuất hiện như nhà đạo diễn cuốn phim hài kiêm quay phim nhiếp ảnh, cùng bạn bè rầm rộ nhảy lên những ngôi mả như muốn đánh thức những linh hồn chết kia trở dậy để chứng kiến đám tang linh đình về người ông của hắn. Hắn bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy hoặc gục đầu hoặc cong lưng… cho đúng mốt hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… hợp thời trang để làm nên những tấm ảnh giả về cái chết thật và những tấm ảnh thật về cái chết của nhân tính.
Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng, ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt. Nhưng thực ra đó là tiếng khóc nhằm che giấu nụ cười nên không ra khóc mà cùng chẳng ra cười. Cuối cùng chỉ là những âm thanh méo mó: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mắt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Đám ma trong Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng là đám ma có một không hai không chỉ nó to nhất Hà thành xưa nay mà vì những diễn biến của đám tang đó, những màn kịch đã xuất hiện. Ta như có cảm tưởng Vũ Trọng Phụng đang chứng kiến cái đám tang đó và tường thuật lại cho người đọc một cách chi tiết về nó với một nụ cười châm biếm mỉa mai. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nói lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 3
Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!
Để dàn dựng một màn hài kịch cười, trước hết phải phát hiện ra một mâu thuẫn trào phúng. Tiếng cười có muôn hình vạn trạng, tuy nhiên bao giờ nó cũng bật ra trước một mâu thuẫn trào phúng được phóng đại lên.
Mâu thuẫn trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia được gợi lên ngay từ cái nhan đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối nhưng đó là cái bối rối sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám rước, một ngày hội.
Người chết là cụ cố tổ. Cụ mất đi để lại một gia tài lớn. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt ruột, vì cụ cứ sống mãi. Con cái, dâu rể đều chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi một hạnh phúc vậy.
Và hạnh phúc đã đến. Đặc sắc của đoạn trích là đã diễn tả được chung quanh hạnh phúc chung của tang gia, mỗi thành viên trong gia đình lại có một hạnh phúc riêng không ai giống ai, gắn liền với tính cách riêng của mỗi người và mỗi nhân vật lại có một mâu thuẫn trào phúng.
Chẳng hạn như cụ cố Hồng. Vì là cụ cố nên luôn đóng vai già yếu, tuy tuổi cụ mới ngoài 50. Xưa nay, cụ mới đóng trò già yếu trong nhà, nay nhờ có đám tang cụ được diễn trò già yếu trước hàng nghìn người. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai. Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi chà! Trông kìa! Con trai lớn đã già đến thế kia kìa!”
Vợ chồng Văn Minh thì chắc chắn sẽ được chia một gia tài kha khá, chỉ còn phải lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của cụ cố tổ để cái chúc thư kia đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa.
Đây cũng là dịp để tiệm may âu hóa và ông có thể lăng xê những mốt trang phục táo bạo nhất có thể cho những ai có tang đang đau đớn, vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.
Cô Tuyết thì sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây thơ hở cả nách và nửa vú viền đen, đội cái mũ mấn xinh xinh. Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.
Ông Phán mọc sừng lại hả hê vì đã được cụ cố Hồng hứa chia thêm cho vài nghìn đồng. Chính cụ cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu của mình lại to đến như thế. Cậu Tú Tân thì mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà vẫn chưa được dùng đến. Xuân Tóc Đỏ càng được vênh vang hơn vì nhờ nó mà cụ Cố mới lăn đùng ra chết. (Nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô Hoàng Hôn, cháu gái của cụ, và cắm sừng vào đầu ông Phán, cháu rể cụ). Là cố vấn của báo Gõ Mõ, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám tang vì đã bổ sung vào sự long trọng sáu chiếc xe chở sư cụ chùa bà Banh, đại diện hội Phật Giáo, báo Gõ Mõ cùng với những vòng hoa đồ sộ….
Hạnh phúc còn lan ra cả ngoài gia đình người chết. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ cố Hồng được dịp khoe khoang sự oai vệ và danh giá của mình, những bội tinh và râu ria…. Hàng phố thì vui quá vì mấy khi được xem đám ma to như thể là hội chợ.
Một trong những nét đặc sắc của chương truyện là tả đám đông ồn ào. Láo nháo, nhặng xị. Dường như có ý thức khi vận dụng kĩ thuật điện ảnh, tác giả lùi xa quay toàn cảnh đám tang đang nghiêm chỉnh đi theo quan tài người chết đến tận huyệt với cái điệp khúc đám cứ đi…. Có khi lại dí sát ống kính quay cận cảnh để thấy đây không phải là một đám ma mà là một đám rước, đám hội hết sức vui vẻ. Đám cứ đi nhưng không ai nghĩ đến việc đưa đám. Đến đây không phải để khoe những bộ ngực đầy huân, huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về những chuyện vợ con, chuyện sắm một cái áo, cái tủ…. Còn bọn thanh niên thì chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma.
Màn kịch kết thúc bằng chi tiết hài hước “chó đểu”. Ông Phán mọc sừng dúi vào tay Xuân 5 đồng thanh toán tiền thuê Xuân tố cáo cái nhục mọc sừng của ông ta. Hạnh phúc của một tang gia là tác phẩm dùng hình thức chế giễu lật tẩy tính chất bịp bợm của những tầng lớp gọi là thượng lưu, trí thức của Hà Nội xưa.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 4
Vũ Trọng Phụng – cây bút trào phúng đại tài của văn học Việt Nam. Bút lực của ông giống như một thứ vũ khí chọc sâu đay nghiến vào bộ mặt xã hội đương thời với những thứ thối nát, giòi mọt đáng châm biếm. Trong những tác phẩm của tác giả họ Vũ, thành công nhất phải kể đến “Số đỏ” – nơi tụ hội của những màn hài kịch đặc sắc nhất, đặc biệt là một đám ma gương mẫu “ai cũng vui vẻ cả”!
Cảnh đám ma của cụ cố tổ được miêu tả xuất sắc ở chương XV của tiểu thuyết “Số đỏ” với nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia” (nguyên văn trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng đặt là “Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu”). Suốt những trang viết của tác giả là một chuỗi cười kéo dài mà đỉnh điểm đọng lại nằm ngay trên nắp quan tài một người chết với cuộc đưa tiễn tập thể. Ở đâu mà cái chết lại trở thành niềm vui, hạnh phúc của nhiều người đến vậy, ở đâu mà trong đám tang người ta tự cho mình cái quyền khoe mẽ lố lăng đồi bại, tất cả cõ lẻ chỉ tồn tại trong cái xã hội tư sản thành thành thị Âu hóa định nghĩa bởi sự “văn minh”. Chưa bao giờ người ta thấy tiếng cười lại mang nhiều sắc độ, triền miên không dứt như vậy.
Vũ Trọng Phụng đã miêu tả một đám ma được tổ chức hoành tráng, rùm beng với không khí tưng bừng chẳng kém gì lễ hội. Cái phong cách kết hợp cả Ta, cả Tàu, cả Tây lộn xộn “có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc soảng và bú dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ”. Một đám ma gây được sự chú ý, khiến thiên hạ phải trầm trồ bàn tán ngưỡng mộ đúng theo ý của cụ cố Hồng. Mà người kể chuyện cũng phải thốt lên “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”.
Đám ma đi đến đâu cũng kéo theo cái sự rộn ràng huyên náo như một gánh xiếc rẻ tiền quảng cáo dăm ba cái màn trình diễn thú. Người đi đưa thì toàn những quan chức có quyền, tai to mặt lớn, họ đến đám tang để thể hiện cái oai phong thị uy danh giá của mình và đã rất xúc động khi “trông thấy một làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Tiếng kèn, tiếng nói chuyện át cả tiếng khóc. “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, xong le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may” Rồi còn cả “đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”.
Đám ma diễu hành qua tận 4 con phố dài, càng đi, càng náo nhiệt tưng bừng, đi đến đâu cũng thu hút đến đấy. Để tăng thêm phần hấp dẫn rực rỡ cho show diễn, không thể thiếu sự xuất hiện của Xuân Tóc đỏ với “sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai ngăn… Hai vòng hoa đồ sộ, một nhà báo Gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào hàng đầu”. Hay thay, cả sư chùa, nhà báo cũng tham gia vào cuộc vui có một không hai này. Tất cả giống như một gánh tạp kĩ đang cố mua vui cho thiên hạ, Con người, đồ vật, màu sắc, âm thanh cứ đập vào nhau chan chát. Tiếng khóc bỗng thành thứ xa xỉ nhất trần đời. Đây là đám ma người chết hay đám rước người sống? Giọng văn vừa sâu cay, vừa bỡn cợt lại có phần chua chát của Vũ Trọng Phụng đang giáng một đòn đánh mạnh vào sự tha hóa của xã hội, mà ở đó lũ người lố lăng lấy cái chết làm niềm vui, lấy đau thương làm sự phô bày. Tang gia mà lại hạnh phúc, đám ma mà lại lắm kẻ cười hơn người khóc. Nhưng đám cứ đi, cứ đi, chẳng dừng mà có lý nào lại dừng khi trò vui còn chưa kết thúc.
Đến đỉnh cao của ngòi bút trào phúng, chính thức lột ra cái bộ mặt giả dối của toàn bộ lũ người kia chính là cảnh hạ huyệt. Người ta nhìn thấy cậu Tú Tân “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau.” Người ta hả hê trông theo: “Xuân Tóc Ðỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”. Một bức tranh sống động với đủ mọi loại sắc thái biểu cảm.
Sự “chó đểu” của cả một xã hội dột nát về nhân cách đã được thể hiện xuất sắc qua cảnh đám ma gương mẫu trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Vũ Trọng Phụng đã xuất sắc sử dụng ngòi bút châm biếm đầy hài kịch để thể hiện chất tương phản của sự việc. Ở đó, mọi cái rởm, cái đồi bại đều được phô ra hết.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 5
Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ kể về đám ma của cụ cố Tổ. Đám ma là sự mất mát về người và tình cảm nhưng lại được tổ chức linh đình, hoành tráng như những đám hội, cuộc đưa tiễn tập thể đầy lố lăng nửa Tây nửa Ta đồi bại, giả dối của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cảnh “đám ma gương mẫu” không chỉ mang đến tiếng cười hài hước, hóm hỉnh mà tiếng khóc than của những giá trị đạo đức bị băng hoại
Nghịch lí của đoạn trích được thể hiện ngay trong nhan đề của chương “Hạnh phúc của một tang gia”, từ bao giờ mà một đám tang lại có thể mang đến niềm hạnh phúc cho con người? Đó chẳng phải nghịch lí khác người, khác thường hay sao? Tuy nhiên, theo dõi toàn bộ chương truyện ta lại thấy nhan đề tác phẩm không thể phù hợp hơn với những cái lố lăng, kệch cỡm diễn ra trong đám ma của cụ cố Tổ.
Thông thường, đám tang cần đảm bảo không khí nghiêm trang để thể hiện tình cảm, sự kính yêu đối với người đã mất. Đám tang của cụ cố Tổ lại thật đặc biệt với những nghi thức lạ lùng, không khí náo nhiệt như trong đám hội. Nghi lễ đám ma có sự xuất hiện theo lối Tây, Ta, Tàu, tiếng khóc của người thân trong gia đình thì chìm nghỉm trong tiếng nói chuyện, cười đùa đầy lố lăng của đám thanh niên nam nữ, của những người tham dự đám ma. Đám ma dường như mất đi không khí thông thường mà trở nên hỗn độn, hài hước như một sân khấu rộng lớn, nơi có rất nhiều diễn viên cùng nhau hoàn thành một vở kịch đầy giả tạo.
Tác giả Vũ Trọng Phụng cũng thể hiện sự chua xót thông qua lời văn bỡn cợt, hóm hỉnh: “Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”.
Cảnh hạ huyệt là đỉnh cao của bút pháp trào phúng, nơi những nhân vật trong đoạn trích tự bóc trần mặt nạ giả dối của mình. Cậu Tú Tân vì muốn thể hiện tài năng chụp ảnh mà nhảy hết lên ngôi mộ này đến ngôi mộ khác để tự đạo diễn cho cuốn phim của mình. Không những thế, hắn ta còn bắt người này tạo dáng như này, người kia làm thế khác để khung hình đẹp hơn. Cụ cố Hồng vui mừng, hạnh phúc vì được mặc áo xô gai, chống gậy nhưng đến khi hạ huyết cũng đã dốc hết sức để diễn vai của một người con có hiếu, cố Hồng khóc đến lả người đi.
Trong không khí huyên náo ấy còn xuất hiện một tiếng khóc đặc biệt khiến người đọc cười ra nước mắt, đó chính là tiếng khóc của Phán mọc sừng, vốn là cháu rể của người mất. Điều đáng nói là với quan hệ với người mất, Phán mọc sừng sẽ không cảm thấy đau khổ mà khóc đầy thương tâm như thế “hứt hứt hứt”, hắn khóc đến oặt người đi mà ngã vào tay của Xuân Tóc Đỏ. Nhưng ai ngờ rằng hắn ta nào có chút thương xót nào cho người đã mất, hắn đã dựng lên màn kịch mà hắn là đạo diễn và cũng kiêm luôn vai diễn chính của người cháu hiếu thảo để thực hiện nốt “giao dịch” với Xuân tóc đỏ. Cái bi hài thể hiện ở chỗ miệng khóc nhưng tay Phán mọc sừng lại dúi nhanh tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho kẻ đã chỉ tay vào mặt hắn mà nói “Thưa ngài, ngài là người chồng mọc sừng”.
Có thể nói, đám ma của cụ cố Tổ là “đám ma gương mẫu”, đám ma có một không hai nơi phơi bày đến tận cùng những cái xấu xa, giả tạo của những con người thuộc tầng lớp trên của xã hội.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 6
Tác phẩm với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia – miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của thế kỉ XX. Tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn…
Hạnh phúc của một tang gia, nhà có tang lại là niềm hạnh phúc, cái hạnh phúc của lũ con cháu bất hiếu. Cái đám ma này bề ngoài thì thật long trọng, nhưng thực chất chẳng khác gì đám rước nhố nhăng. Đám ma to tát, đi đến đâu là huyên náo đến đó. Sau thời gian bối rối của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất – ông cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, Tây, Tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng… Kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên.
Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng thì thầm về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói thì thào của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, than thở việc vợ béo, chồng gầy. Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như ở hội chợ. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: Đám cứ đi rồi lại Đám cứ đi. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu.
Đỉnh cao của màn kịch trào phúng của cái đám ma chính là cảnh hạ huyệt. Tú Tân xuất hiện như nhà đạo diễn cuốn phim hài kiêm quay phim nhiếp ảnh, cùng bạn bè rầm rộ nhảy lên những ngôi mả như muốn đánh thức những linh hồn chết kia trở dậy để chứng kiến đám tang linh đình về người ông của hắn. Hắn bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy hoặc gục đầu hoặc cong lưng… cho đúng mốt hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… hợp thời trang để làm nên những tấm ảnh giả về cái chết thật và những tấm ảnh thật về cái chết của nhân tính. Cụ cố Hồng thì ho khạc, mếu máo và ngất đi.
Chất bi hài của cảnh đám ma khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng, ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt. Nhưng thực ra đó là tiếng khóc nhằm che giấu nụ cười nên không ra khóc mà cùng chẳng ra cười. Cuối cùng chỉ là những âm thanh méo mó: Hứt! Hứt! Hứt!… Đó phải chăng là tiếng khóc thương người đã khuất ? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mắt mọi người kiểu như hất! hất! hất! … hất nhanh cái thây ma xuống mồ. Ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.
Đám tang diễn ra như một tấn đại hài kịch. Nó nói lên tất cả sự lố lăng vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước. Cái xã hội mà tác giả gọi là Chó đểu, khốn nạn.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 7
Vũ Trọng Phụng là một trong số những cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX với ngòi bút trào phúng sắc sảo bậc thầy. Có thể nói tiểu thuyết Số đỏ là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của ông. Toàn bộ tác phẩm đã vạch rõ bộ mặt của tầng lớp thị dân thành thị và dường như tất cả những điều đó đã được kết tinh một cách trọn vẹn trong chương sách Hạnh phúc của một tang gia. Đọc Hạnh phúc của một tang gia chắc hẳn bạn đọc sẽ không thể nào có thể quên được cảnh “đám ma gương mẫu” của cụ cố Hồng.
Trước hết, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã quan sát một cách tỉ mỉ, chi tiết và vẽ nên bức tranh cảnh đưa đám cụ cố Tổ với nhiều nét lố bịch, đấy là một đám ma to nhất Hà thành và náo nhiệt như một đám hội. Lẽ thường, nơi đám ma bao giờ người ta cũng cảm nhận được cái không khí hiu quạnh, buồn thương, tiếc nuối ấy vậy mà, giờ đây, cảnh đưa tang của cụ cố tổ mới thật khác người. Một cái đám ma “theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có cả kiệu bát cống, lợn quay đi lọng”, rồi đến cả những “lốc bốc xoảng, bú-dích và vòng hoa, có cả vài ba trăm người đi đưa,…”. Có lẽ, ở cái đất này, chưa có ai có cái đám tang to như thế, to đến mức có thể khiến cho “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười.” Đấy là một cách nói đầy mỉa mai của tác giả bởi cả nhà cụ cố Hồng đã biến cái đám ma của cụ cố Tổ trở thành nơi để khoe giàu sang, tiền của. Cảnh đưa tang đã không còn sự tĩnh lặng, ảm đạm, thê lương khi mất đi một người thân yêu mà thay vào đó như một đám hội, nhộn nhịp “đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy.”
Thêm vào đó, cái lố lăng, đầy nghịch lí của đám đưa tang còn được tác giả khắc họa rõ nét qua hình tượng những người tham dự đám tang. Tuyết với “bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-xê, trông như hở cá nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh”. Dường như, đám tang đã trở thành dịp để Tuyết chứng minh với mọi người mình vẫn còn trinh chứ không phải là người hư hỏng. Đó còn là những người bạn của cụ cố Hồng, “ngực đầy những huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh,…trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn,…”.
Có lẽ với những người bạn thân của cụ cố Hồng, đám ma đã trở thành nơi để họ khoe và thi huy hiệu, thi râu. Nhưng có lẽ không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn miêu tả, tái hiện lại hình ảnh của những người bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn,… – họ là những người tân thời ấy vậy mà ngay trong đám tang của người chết, họ lại “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám”. Thêm vào đó, điệp khúc “đám cứ đi…” lặp lại nhiều lần với một ý nghĩa rất đặc biệt. Để rồi, đằng sau cái điệp ngữ ấy, đằng sau cái dòng người đông đúc đang đi đưa đám ấy người ta nhận thấy cái bộ mặt lố bịch, giả dối của họ với vẻ ngoài có vẻ đượm buồn nhưng từ sâu trong họ lại là một niềm sung sướng, khoan khoái khác thường.
Đặc biệt, cảnh đám tang còn để lại ấn tượng và ý nghĩa sâu sắc với người đọc ở cảnh hạ huyệt. Cảnh hạ huyệt như một màn hài kịch mà ở trên sân khấu ấy mọi người đang cố hoàn thành xuất sắc vai diễn của mình. Cậu Tú tân đang biểu diễn vai diễn của một người thợ chụp ảnh, cố dàn dựng để tất cả mọi người có thể hoàn thành vai diễn của mình “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gây, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này thế nọ,…để cậu chụp ảnh lúc kỉ niệm.” Thêm vào đó, để lại ám ảnh sâu sắc với bạn đọc ở cảnh hạ huyệt còn là tiếng khóc “hứt…hứt…hứt…” của ông Phán mọc sừng. Người ta sẽ nghĩ tiếng khóc ấy ẩn chứa bao nỗi buồn, bao niềm xót thương với người ra đi, nhưng không, tiếng khóc ấy là cách để ông Phán giấu đi một thương vụ mua bán, trao đổi với Xuân Tóc Đỏ. Và như vậy, với ngòi bút trào phúng bậc thầy của mình, Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên cảnh hạ huyệt với đầy rẫy những trò bịp bợm, tất cả như một vở hài kịch mà mỗi người đều có cho mình một mục đích riêng.
Tóm lại, với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa thành công cảnh đám tang của cụ cố Hồng, qua đó cho thấy bộ mặt đểu cáng, bịp bợm đầy những dối gian của những con người trong xã hội thượng lưu thời bấy giờ.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 8
Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực 1930-1945, ông là một cây bút giàu tài năng và đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi chữ quốc ngữ Việt Nam. Tuy cuộc đời ngắn ngủi song Vũ Trọng Phụng đã để lại một sự nghiệp văn chương rất phong phú với nhiều thể loại, trong đó nổi bật nhất là tiểu thuyết và phóng sự. Và có thể nói tiểu thuyết “Số đỏ” là một trong số những sáng tác thành công nhất của ông. Với ngòi bút trào phúng bậc thầy, Số đỏ đã phơi bày bản chất bịp bợm, “lai căng”, “chó đểu” của bộ phận tư sản thành thị đương thời. Và đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” nói chung, cảnh đám ma gương mẫu nói riêng đã góp phần làm rõ bộ mặt gian xảo, bịp bợm ấy.
Với đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, tác giả Vũ Trọng Phụng không chỉ miêu tả niềm sung sướng, hạnh phúc của mọi người trước cái chết của cụ cố Hồng mà hơn thế còn biếm họa một bức tranh, một vở bi – hài kịch đặc sắc, đó chính là cảnh đám ma. Và có thể nói, ẩn sâu trong cảnh đám ma gương mẫu ấy, sau màn kịch ấy xuyên suốt là mâu thuẫn giữa cái thật và cái giả.
Trước hết, có thể thấy đám ma được tổ chức rất lớn, “to chưa từng thấy ở đất Hà thành”. Đó là “một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như hội chợ.” Vâng, hẳn đấy mà một đám ma rất to, một đám ma mà “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!” Nhưng có lẽ, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng không chỉ đứng ngoài để nhìn cái vẻ to tát ấy, mà ông nhận ra, đằng sau cái cảnh đám ma to nhất Hà thành kia chẳng qua chỉ là sự phô diễn, khoe sang, khoe giàu một cách lố bịch và hợm hĩnh. Và có lẽ “cái gật gù” tác giả nhắc tới không phải là gật gù tán thưởng mà là cái gật gù vì vỡ lẽ, vì hiểu ra mọi thứ.
Đồng thời, cảnh đám ma gương mẫu qua ngòi bút của Vũ Trọng Phụng còn hiện lên qua cách ông miêu tả những người trong và ngoài gia đình lúc đám tang diễn ra. Là Tuyết với “bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ xinh xinh. Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ cho thiên hạ biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với cái tráp trầu ca và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám.” Vâng với Tuyết, dù cho vẻ ngoài có chút đượm buồn, nhưng ngòi bút của tác giả đã kịp phát hiện ra ẩn sau cái nét đượm buồn ấy là niềm háo hức vì đây là dịp Tuyết chứng minh mình không hư hỏng. Đó là những ông bạn thân của cụ cố Hồng đang biến đám tang thành nơi khoe huân chương và thi râu. Là đám giai thanh, gái lịch bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan… đang biến đám tang trở thành nơi “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”. Và để miêu tả bản chất thực sự bên trong của những người đưa đám, cảnh đưa đám còn được lột tả rõ nét qua điệp ngữ “Đám cứ đi” được Vũ Trọng Phụng nhắc lại nhiều lần. “Đám cứ đi” là cái đám ma to, là dòng người đông đúc đi sau quan tài, với vẻ mặt hơi buồn đang di chuyển đến nơi hạ huyệt. Nhưng ẩn sâu trong mỗi con người ấy, trong mỗi cử chỉ, hành động của họ lại thể hiện đây là một cuộc đưa rước, vui vẻ, đình đám…
Và đặc biệt, bản chất thực sự của cảnh đám ma gương mẫu được tác giả lột tả qua cảnh hạ huyệt. Đó là hình ảnh cậu Tú Tân “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc láu mắt như thế này, thế nọ… để cậu chụp ảnh kỉ niệm. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác nhau mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau”. Là tiếng khóc tưởng chừng như đau đến xé ruột “Hứt…hứt…hứt…” của Phán mọc sừng nhưng đằng sau đó là một cuộc mua bán với Xuân tóc đỏ – “Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”. Vâng, dường như cả đám ma nói chung và riêng cảnh hạ huyệt là một màn kịch đã được dàn dựng, ở đó mỗi con người xuất hiện đều là một diễn viên, mang cái sự đối lập giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Và hơn hết, nơi đám ma ấy, ta thấy rõ bản chất của một xã hội, nơi đồng tiền đang lên ngôi và tất cả mọi thứ đều có thể trở thành cuộc mua bán, trao đổi.
Phân tích cảnh đám ma gương mẫu
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 1
Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng – một nhà văn lớn của văn học Việt Nam. Cùng chung tư tưởng với những tác phẩm khác, Số đỏ toát lên niềm căm phẫn mãnh liệt xã hội đen tối, thối nát đương thời. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia kể lại một cách hài hước, châm biếm toàn bộ quá trình tổ chức tang lễ cho cụ cố tổ. Mỗi người trong đó đều mang một nỗi niềm bối rối xen lẫn hạnh phúc. Tất cả đã tạo nên một đám tang thật gương mẫu và sinh động.
Như thế nào được gọi là đám tang gương mẫu? Xưa nay chỉ có những việc tốt, người tốt mới được gọi là gương mẫu. Phải chăng Vũ Trọng Phụng đang ngầm muốn thể hiện điều gì đằng sau đám tang ấy? Từ lúc cụ cố Tổ nhắm mắt xuôi tay cho tới khi hạ huyệt, tất cả đều diễn ra theo đúng kiểu của một đám ma thực sự.
Lúc đầu, ai nấy đều bối rối vì chưa biết xử trí ra sao và làm như thế nào. Mỗi người mang một nỗi niềm riêng. Ông Văn Minh băn khoăn không biết nên trả ơn Xuân thế nào vì chính hắn đã vô tình gây ra cái chết cho cụ cố tổ, khiến cái chúc thư sớm đi vào hiện thực chứ không còn là cái lý thuyết viển vông nữa. Ông sẽ được phân chia tài sản. Ông phân vân, vò đầu bứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo cửa mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ Hồng cứ nhắm mắt lại kê khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi. Kỳ thủy sở dĩ chưa phát phục chỉ vì chuyện Tuyết, hay việc Xuân Tóc Đỏ đã gây ra cho Tuyết vậy. Như vậy, bước đầu đám ma đã có phần gương mẫu vì ai trong đám ma ấy cũng đều đang rất bối rối, chỉ là lý do họ bối rối không phải vì thương xót, vì sắp xếp công việc mà vì những thú vui của chính bản thân mình.
Cảnh đưa đám bắt đầu. Tuyết buồn vì chưa thấy Xuân đến. Những điều băn khoăn trong lòng Tuyết khiến Tuyết đau khổ một cách rất chính đáng, có thể muốn tự tử được. Mặt Tuyết lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Mọi thành phần xã hội tới dự đám tang đều đủ cả. Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh, vân vân… trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn. Họ tới không phải để tiễn đưa người nằm trong linh cữu về nơi an nghỉ cuối cùng, mà đến để thể hiện cái oai của mình bằng một loạt các thể loại huân huy chương.
Về mặt nghi lễ, đám tang được cử hành theo lỗi cả Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…! Dường như đám ma càng to, mọi người càng hãnh diện. Không một ai thể hiện sự thương xót và nuối tiếc thật lòng. Tất cả mọi người đều đang ngụy trang cho sự giả dối và lố lăng.
Đến giữa phố, Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, hắn dẫn theo sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng, từ một ngã lén vào chiếm chỗ sau năm lá cờ đen. Hai vòng hoa đồ sộ. Cụ bà hớt hải chạy lên: “Ấy giá không có cái món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Như vậy là đám tang đã quá đủ to để hãnh diện và ra oai với thiên hạ.
Sự gương mẫu còn được thể hiện một cách hoàn hảo qua những tiếng khóc “Hứt, hứt” của ông Phán mọc sừng. Mọi trong đám chim chuột nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của một đám tang.
Đám cứ đi…
Một đám tang thật gương mẫu rất đáng để làm gương cho thiên hạ. Nhưng bản chất trong đám tang ấy lại là sự lố lăng, tồi tệ. Người chết nằm đó, nhưng không một ai tiếc thương. Ngược lại, đây là cơ hội để họ được mở mày mở mặt với dân chúng. Cụm từ Đám cứ đi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đã khắc sâu thêm sự giả dối và đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở thành thị trong những năm trước Cách mạng.
Vũ Trọng Phụng đã rất thành công khi dựng lên cảnh đám tang gương mẫu để lên án lối sống đạo đức giả, vô lương tâm của những con người xấu xa, tồi tệ. Nghệ thuật trào phúng được tác giả sử dụng rất nhuần nhuyễn qua ngòi bút sắc sảo. Tất cả đã làm nên một đám tang gương mẫu cho thiên hạ dõi nhìn.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 2
Trong nền văn học Việt Nam đã xuất hiện nhiều cây bút nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Nhưng đến Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) thì người đời mới coi ông là bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Quãng đời sáng tác của Vũ Trọng Phụng rất ngắn ngủi nhưng sự nghiệp lại rất đồ sộ đặc sắc, đặc biệt là ông để lại những kiệt tác như tiểu thuyết “Số đỏ” 1936. Trong tiểu thuyết “Số đỏ” thì “Hạnh phúc của một tang gia” là chương nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng có dịp tung hoành nhất. Ông đã đưa vào trang sách hàng trăm người đại diện cho cả cái xã hội thượng lưu để mà giễu nhại lật tẩy cái giả nhân giả nghĩa của xã hội nửa tây nửa ta trước cách mạng tháng Tám. Ấn tượng nhất trong nghệ thuật trào phúng là ở cảnh Vũ Trọng Phụng diễn tả đám tang đám đông.
Tiểu thuyết “Số đỏ” tác giả dựng lên một sự đểu giả nhốn nháo của cái xã hội nửa tây nửa ta âu hóa trước cách mạng. Xã hội đó được thu nhỏ trong một gia đình thượng lưu gồm nhiều thế hệ do cụ cố Tổ đứng đầu. Cụ cố Tổ là một đại gia giàu có nên có viết chúc thư sẽ chia của cho con cháu khi chết. Đám con cháu đã tìm mọi cách làm cho cụ Tổ chết sớm để chia của, cuối cùng họ đã tìm ra được cách hay nhất đó là thuê Xuân Tóc Đỏ tố cáo ông Phán người cháu rể bị mọc sừng. Cụ Tổ vốn là đại biểu cho gia phong nề nếp nên khi nghe tin đó đã uất ức mà chết. Thay vì việc buồn đau vì một cây cổ thụ ngã xuống thì đám con cháu lại hả hê hạnh phúc. Cái loạn đó từ trong gia đình đã lan ra cả đám tang dẫn đến đám tang cũng nhốn nháo cũng đểu giả.
Trong gia đình thượng lưu này vừa có ta vừa có tây nhưng cụ cố Tổ là một con người của gia phong nề nếp, một con người luôn giữ truyền thống những giá trị văn hóa bao đời nay. Với một con người như thế đám tang diễn ra phải đúng với phong tục truyền thống phải trang trọng trang nghiêm. Nhưng sự thể lại không như truyền thống vốn có mà ngược lại hoàn toàn. Đám tang thì có heo quay đi lộng, một việc xưa nay hiếm. Lối tổ chức đám tang lại vừa ta vừa tàu vừa tây láo nháo hỗn loạn. Làm rộn lên đám tang lại là cậu Tú Tân, cậu như là người chỉ huy của đám tang vậy đó cũng là điều khác lạ. Chi tiết nực cười nhất làm vỡ tung hình ảnh của một đám tang truyền thống đó là Xuân Tóc Đỏ cùng với một đoàn người khác chen vào vào trước đám tang. Thông thường đám tang thường diễn ra theo một trật tự rất có tổ chức nghiêm trang thì nay được chen ngang như một đám rước đó là chuyện nực cười không thể tưởng tượng nổi. Với một sự hỗn loạn như thế đám tang đã làm náo loạn tất cả những khu phố đi qua. Với một điệp từ “đám cứ đi” nhà văn còn gợi lên cho người đọc một đám tang rộng dài như một đám biểu tình, như một đám rước hội.
Một đám tang thật đông vui có đến ba trăm người nhưng ba trăm người đó có thái độ như thế nào trong đám tang. Ba trăm người là ba trăm tâm trạng vui. Nhà văn không đi miêu tả tâm trạng của từng người từng kẻ mà nhấn mạnh tâm trạng thái độ của ba hạng người: những người bạn của cụ cố Hồng đại diện cho phái truyền thống, những người bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh đại diện cho phái tân tiến âu hóa, cậu Tú Tân, ông Phán, cụ cố Hồng đại diện cho tang gia.
Những người bạn của cụ cố Hồng là những kẻ tai to mặt lớn, đáng lí họ phải làm gương cho con cháu, phải có một thái độ văn hóa nhất trang nghiêm nhất. Thì trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng lại cho họ xuất hiện hoàn toàn khác hẳn với điều lẽ ra họ nên có, họ đi đám tang là để khoe huân chương và khoe các bộ ria. Họ đi đám tang là để có dịp tâm sự về chuyện “vợ con gia đình, về cái tủ mới sắm cái áo mới may”. Tệ hại hơn hết là họ có thái độ đểu giả thiếu nghiêm túc trong việc dúi mắt vào làn da trắng thập thò của cô Tuyết mà quên đi phận sự của mình là đang tiễn đưa người quá cố đáng kính.
Những người trai thanh gái lịch hà thành hiện thân cho văn minh âu hóa thì lại đi chiêm chọc nhau ghen tuông ghè biểu nhau, họ nói toàn những chuyện xa lạ với đám tang. Đó là thái độ vô văn hóa của một lớp người luôn nghĩ mình là văn hóa văn minh nhất.
Còn thái độ hành động của thân chủ tang gia thì sao? Vẫn là một tâm trạng vui sướng hạnh phúc thường trực trong mỗi thành viên. Khi cụ cố Tổ chết cả nhà đều mừng khi đám tang diễn ra cũng thế. Bà cụ Hồng thì “sung sướng reo lên” giữa đám tang khi Xuân Tóc Đỏ đưa đến hai vòng hoa chen ngang vào giữa đám tang. Cụ bà đã thốt lên “ấy, nếu thiếu cái ấy thì không được to may nhờ anh Xuân nghĩ hộ tôi”. Trong khi đó cậu Tú Tân lại lăn xăn chụp ảnh như trong hội chợ. Cụ cố Hồng thì giả đò mếu máo cho hợp hoàn cảnh, còn ông cháu mọc sừng người được hưởng lợi nhất trong cái chết cụ cố Tổ thì dở một trò chó đểu nhất đó là dúi năm đồng gấp tư vào tay Xuân Tóc Đỏ để trả tiền công. Hành động này lại càng đểu giả hơn khi được bao che bởi tiếng khóc giả đò hức hức, đó là tiếng khóc đánh lạc hướng quan khách đánh lạc hướng đám đông nhưng không che được mắt Vũ Trọng Phụng.
Nghệ thuật trào phúng là bằng mọi cách để tạo ra tiếng cười, có khi là tiếng cười đau xót xót xa chua chát, có khi là tiếng cười sảng khoái để mà phê phán. Tiếng cười Vũ Trọng Phụng vừa có sự kết hợp giữa chua chát và sảng khoái với thiên về tiếng cười sảng khoái để làm bùng nổ nội dung tiếng cười phê phán. Ở chương mười lăm này Vũ Trọng Phụng đã dùng các thủ pháp trào phúng cơ bản đó là tạo ra mâu thuẫn đối lập giữa buồn và vui, giữa trang nghiêm và bát nháo và nghệ thuật trào phúng.
Qua việc phân tích cảm tượng đám đông đám tang ở trên tác giả đã làm lộ rõ các mâu thuẫn này: đám tang lẽ ra buồn đau ai oán thì cả gia đình đều vui, cả đám đông quan khách cũng đều một trạng thái ấy. Đám tang theo cái lí ở đời phải trang nghiêm, phải đạo trang nghiêm, ngược lại thì là một sự láo nháo hỗn loạn như hội chợ. Có lẽ người đọc nhớ nhất, ám ảnh nhất về nghệ thuật diễn tả đám tang này là nghệ thuật phóng đại. Ở trong đời kể cả những người không tin thì lúc hạ huyệt một người thân cũng khó có thể xảy ra hành động như ông Phán mọc sừng. Tác giả đã phóng đại chi tiết này nhưng là sự phóng đại có logic có thể chấp nhận được. Giá trị sự phóng đại này rất to lớn nó làm bật tung lên sự trắng đen thật giả, sự giả nhân giả nghĩa của bọn con cháu, của bọn người tự xưng là văn minh.
Vốn được mệnh danh là nhà văn hiện thực xuất sắc, trong các tác phẩm của mình Vũ Trọng Phụng luôn lôi ra những sự thật ở đời. Có khi miêu tả sự thật với một thái độ thương cảm đau xót, có khi dựng lên một sự thật để châm biếm mỉa mai để mà khinh bỉ căm ghét. Thái độ của Vũ Trọng Phụng trong chương “Hạnh phúc của một tang gia” nhất là trong việc miêu tả đám đông tang gia là một thái độ khinh bỉ căm ghét. Đây là một thái độ rất có trách nhiệm với xã hội, nhà văn muốn cho xã hội thấy được một vẫn đề nghiêm trọng là những giá trị văn hóa cổ truyền đang bị đảo lộn, cơn lốc âu hóa đang làm mai một truyền thống, tha hóa con người.
Cảnh đám ma gương mẫu – Mẫu 3
Tác giả Vũ Trọng Phụng là một trong những nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thuở nhỏ, ông có một cuộc sống cơ cực. Cha mất sớm. Năm 14 tuổi, ông phải thôi học để kiếm sống. Nhưng may mắn, trước đó, 6 năm Tiểu học, ông đã được học tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ. Nhờ đó, sau 2 năm làm việc tại một số nhà hàng Gôđa và nhà in Viễn Đông, tác giả quyết định sang làm báo và cũng từ đây, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn chuyên nghiệp. Ông rất mát tay trong việc xuất bản các cuốn tiểu thuyết. Trong đó, có Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ, Làm đĩ đều được bạn đọc đón nhận và sống mãi đến tận ngày. Tất cả tác phẩm đều ông viết dưới ngòi bút trào phúng, châm biếm và đả kích, phê phán xã hội những vấn đề trong xã hội lúc bấy giờ.
Hạnh phúc một tang gia trích đoạn thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ. Tiểu thuyết này là tác phẩm nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng, nhằm châm biếm, đả kích sự giả dối, dị hợm của xã hội thực dân phong kiến nửa đầu thế kỷ XX. Cụ thể là phê phán lối sống lệch lạc, của một gia đình thượng lưu. Đây là gia đình tiêu biểu cho mọi tấn trò đời, và ngay cảnh cảnh đám ma cũng rất gương mẫu, đáng để độc giả vừa buồn cười, vừa xót xa.
Trước lúc đi vào phân tích cảnh đưa tang trong Hạnh phúc một tang, các bạn cần khái quát nội dung toàn bộ trích đoạn.
Sở dĩ có sự ra đời của đám tang này là nhờ có sự đóng góp của nhân vật Xuân Tóc đỏ. Nhờ sự báo cáo về việc ông Phán bị mọc sừng mà ông cụ già của cụ cố Hồng đột tử. Thông thường, cái chết sẽ dẫn đến bao đau thương, nhưng với gia đình cụ cố Hồng, thì đó lại là một niềm hạnh phúc. Các con, các cháu chỉ mong cụ chết để thừa hưởng tài sản, để có dịp mặc áo tang kiểu mốt thịnh hành, để được khoe huân huy chương, để được khoe là đám tang lo lớn với bàn dân thiên hạ… Thật là một câu chuyện khiến độc giả vừa chê cười, về thấy xót xa cho đạo đức con người xuống dốc.
Qua cảnh đưa tang trong Hạnh phúc một tang gia thế kỷ XX nhưng độc giả dường như vẫn nhận ra đâu đó trong cuộc sống hiện đại ngày nay vẫn tồn tại. Lúc sống người chết không được đối đãi yêu thương. Nhưng khi chết, thì những người sống còn lại mới làm ra vẻ quan tâm hiếu thuận. Để rồi, tổ chức đám tang thật inh đình. Nói là để cho người chết ở dưới suối vàng yên lòng, nhưng thực chất là để cho bản thân người sống để tiếng thơm cho đời, nở mày nở mặt.
Đám tang cụ già nhà cụ cố Hồng cũng vẫy. Đó đích thực là một đám tang gương mẫu, được tổ chức vô cùng trọng thể và hoành tráng. Đúng theo ý của cụ cố Hồng “Với một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú dích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài trăm người đi đưa, lại có cậu tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”
Khá khen thay cho nhà văn Vũ Trọng Phụng với giọng điệu châm biếm đã vẽ nên bức tranh đám tang hoành tráng không thể chê vào đâu được. Nhưng nổi bật hơn cả trong cảnh đưa tang ấy là những con người đưa đám.
Người đi đưa đám ma toàn gồm những ông “tai to mặt lớn”, “trên ngực đầy những huy chương như: Bắc đẩu bội linh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn tượng bội tinh, vân vân…”. Nhưng họ không cảm động vì đám ma long trọng mà họ cảm động khi “trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”. Bên cạnh những ông tai to mặt lớn bạn của cụ cố Hồng, là những trai thanh gái lịch bạn của cô Tuyết, của cậu Tú tân… Thay vì tỏ ra chia buồn với gia quyến, họ lại tranh thủ thời gian chim chuột nhau, nhìn ngắm rồi cười tình với nhau. Họ còn thản nhiên chê bai, bình phẩm, ghen tuông và hẹn hò nhau… dưới vẻ mặt rầu rĩ của những kẻ bắt buộc phải đi đưa đám ma. “Chen lẫn vào những tiếng khóc lóc, mỉa mai nhau của những người trong tang gia, người ta thấy những câu thì thào như sau này:
– Con bé nhà ai kháu thế? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! – Ừ, ừ, cái thằng ấy bạc tình bỏ mẹ! – Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? – Hai đời chồng rồi! – Còn xuân chán! – Gớm cái ngực, cái đầm quá đi mất! – Làm mối cho tớ nhé? – Mỏ vàng hay mỏ chì? – Không, không hẹn hò gì cả – Vợ béo thế, chồng gầy thế, thì mọc sừng mất! Vân vân…
Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma”
Cảnh đưa đám chưa dừng ở đó, nó còn đi qua hẳn bốn tuyến phố. Đi đến đâu, làm huyên náo, xáo trộn một vùng đến đó. Bạn cậu tú Tân thì thi nhau nháy máy ảnh tanh tách như là đang ở hội chợ. Nhất là khi Xuân Tóc Đỏ xuất hiện cùng với sáu chiếc xe và hai vòng hoa đồ sộ, thì đám ma đã nhón nhao lại càng thêm nhốn nháo. Thật là một cảnh tượng đám ma nhìn ngoài vô cùng long trọng và trang nghiêm, nhưng thực chất bên trong lại la một đám rước phơi bày sự lố lăng, vô văn hóa và đạo đức xuống cấp của những tầng lớp tự coi mình là thượng lưu trong xã hội cũ.
Đầu tiên là trang phục của những người đi đưa ma. Họ xem đám ma ấy như là cơ hội để trình diễn thời trang. Các cô các bà thi nhau mặc đồ xô gai tân thời. Trong khi cô Tuyết, cháu gái thì chọn mặc y phục thơ ngây, bằng ren hở nách.
Nhân vật Xuân tóc đỏ, người đã khiến cụ Tổ chết thì được đón chào trịnh trọng. Vì chính nhờ hắn mới có tiệc đám ma như hôm nay.
Tất cả những người tham gia đám tang như góp phần làm cho bức tranh long trọng ấy như một bức tranh biếm họa. “Hai viên cảnh sát thuộc bộ thứ 18 là Min Ðơ và Min Toa đã được thuê giữ trật tự cho đám ma. Giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như những nhà buôn sắp vỡ nợ, mấy ông cảnh binh này được có đám thuê thì sung sướng cực điểm, đã trông nom rất hết lòng”. Trong Sư cụ Tăng Phú cũng được thể vênh váo vì sẽ có người nghĩ rằng đã có chiến công hiển hách “lật đổ Phật giáo”.
Thật là một cảnh tượng nhố nhăng nhưng lại đội lốt đoan trang cao đẹp.
Cảnh đưa tang trong Hạnh phúc một tang gia đến lúc hạ huyệt mới gọi là đỉnh của của đám tang kiểu mẫu.
Đám tang là lúc tang gia bối rối, làm việc gì cũng ủ rũ, thiếu sức sống, ấy thế mà cậu tú Tân lại bắt bẻ mọi người phải tạo dáng để chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Thật là chuyện trên đời xưa nay hiếm thấy. Không những thế, bạn của cậu thì còn xung quá, nhảy hết lên các nấm mộ khác để lấy góc chụp, sao cho khỏi giống nhau. Tưởng tượng thôi cũng đủ khiến độc giả không nhịn được cười và lắc đầu ngán ngẩm: “Ðến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luôn thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỷ niệm lúc hạ huyệt. Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau”
Đặc biệt, trong cái giờ phút thiêng liêng, tiễn người chết về với đất tổ ấy, ông Phán mọc sừng cứ khóc “hứt hứt” mãi không thôi. Ông oặt người đi vì khóc lóc. Và rồi ông dúi vào tay Xuân một cái giấy bạc năm đồng gấp tư.
Sở dĩ ông Phán phải trả tiền cho Xuân bởi chính ông đã nhờ Xuân gọi mình là Phán mọc sừng. Chính vì Xuân gọi như thế mà cụ tổ chết, và chính vì cụ chết mà ông Phán “mọc sừng đã được cụ Hồng nói nhỏ và tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”.
Toàn bộ đoạn trích là bức tranh miêu tả từ xa đến gần. Từ cảnh quan đưa ma đến những con người trong đám. Từ âm thanh kèn trống đến màu sắc hoa văn.. Tác giả liên tục sử dụng những điệp ngữ Đám cứ đi… càng tăng thêm tính hiệu quả của một đám ma gương mẫu. Vừa có chút bi ai, vừa có chút châm biếm.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng hệ thống nghệ thuật tương phản, giọng điệu mỉa mai, nói thật tả thật mà khiến người nghe cảm thấy thật sâu cay, chua chát.
Qua đây chúng ta nhận thấy bức tranh xã hội giả dối và thối nát. Ở đó, con người ta sống trong lọc lừa, coi trọng vẻ bề ngoài mà đánh mất phẩm giá. Ở đó, người ta đặt tiền tài, danh vọng vinh hoa hóa phú quý lên hàng đầu và coi nhẹ đạo đức phẩm hạnh. Bởi thế, tình huống đám ma là để người đời trả ân nghĩa cho nhau, mà những con người trong bức tranh ấy lại tận dụng để làm những việc đen tối, có lợi cho mình, rồi bêu xấu kẻ khác. Vấn đề nửa tây nửa ta của những năm đầu thế kỷ XX không chỉ riêng gia đình cụ cố Hồng mà của toàn xã hội.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia Cảnh đám ma gương mẫu hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.