Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện Vợ Nhặt 2 Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 12 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Phân tích chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt của Kim Lân mang đến 12 bài văn mẫu hay nhất kèm theo gợi ý cách viết. Qua đó, giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo để nhanh chóng biết cách viết bài văn hay.
Nồi cháo cám là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Kim Lân. Qua chi tiết nồi cháo cám thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Vậy dưới đây là TOP 12 bài văn phân tích chi tiết nồi cháo cám hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm cảm nhận bốn bát bánh đúc, phân tích nhân vật Tràng, phân tích nhân vật Thị và nhiều bài văn khác tại chuyên mục Văn 12.
Phân tích chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt
- Dàn ý chi tiết nồi cháo cám
- Phân tích chi tiết nồi cháo cám học sinh giỏi
- Chi tiết nồi cháo cám hay nhất
- Phân tích chi tiết nồi cháo cám
Dàn ý chi tiết nồi cháo cám
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Vợ nhặt và hình ảnh nồi cháo cám- chi tiết đặc sắc trong truyện.
2. Thân bài
– Vị trí: Nồi cháo cám xuất hiện trong bữa cơm đầu tiên khi gia đình bà cụ Tứ có người con dâu mới.
– Nồi cháo cám là “món quà cưới” đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị cho các con của mình.
– Ý nghĩa tả thực:
- Cháo cám món ăn vốn không dành cho con người.
- Là hiện thân cho cái đói khát, thê thảm của con người trong nạn đói.
– Ý nghĩa biểu tượng: Là tình yêu, tấm lòng của người mẹ dành cho con
– Hình ảnh nồi cháo cám còn góp phần bộc lộ những vẻ đẹp đáng quý bên trong mỗi nhân vật:
- Bà cụ Tứ: Tình thương con, sự quan tâm, trân trọng dành cho người con dâu. Bà cụ chuẩn bị một món quà đặc biệt để chào đón cô con dâu mới à Quan tâm đến những giá trị tinh thần.
- Anh Tràng: Chín chắn, trưởng thành và có trách nhiệm hơn với gia đình.
- Chị vợ nhặt: Bình tĩnh ăn từng miếng cháo cám, nói chuyện để xua đi không khí nặng nề của bữa cơm à Chủ động vun vén hạnh phúc gia đình.
3. Kết bài
– Khẳng định giá trị của chi tiết “nồi cháo cám” trong tác phẩm:
- Phản ánh hiện thực
- Thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc.
Phân tích chi tiết nồi cháo cám học sinh giỏi
Không chỉ thành công ở chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đạm nét trong tâm trí người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới làm rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguuồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.
Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái cử chí và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng.
Chi tiết nồi cháo cám hay nhất (4 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Macxim Gorki từng khẳng định “Một chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả thực như vậy, giá trị của một tác phẩm không chỉ được phản ánh thông qua cốt truyện hấp dẫn, nội dung tư tưởng sâu sắc mà còn bởi chính những tình tiết đắt giá được người nghệ sĩ đưa vào trong tác phẩm của mình. Qua những tình tiết nhỏ, người nghệ sĩ gửi gắm vào đó được những giá trị lớn, đó là chủ đề, tư tưởng hay thông điệp cho toàn bộ tác phẩm. Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt cũng xây dựng được một tình tiết đắt giá như thế, đó chính là hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ.
Nồi cháo cám xuất hiện trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là trong bữa cơm đầu tiên khi gia đình của bà cụ Tứ và anh cu Tràng đón chào cô con dâu mới. Mâm cơm ngày đói cũng thật thê thảm “giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong khung cảnh sum họp hạnh phúc, cái đói, cái khổ cứ bày ra thực khiến người ta xót xa, nghẹn ngào.
Nồi cháo cám là “món quà cưới” đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị cho các con của mình. Trong bữa cơm, cụ Tứ giới thiệu bằng giọng hồ hởi “Tao có cái này hay lắm cơ” rồi bà “lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút”. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ gọi với cái tên đầy hấp dẫn “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Sự xuất hiện của nồi cháo cám trong mâm cơm của gia đình cụ Tứ là hiện thân cho cái đói khát, thê thảm của con người trong nạn đói: phải ăn đến cả đồ ăn vốn không dành cho con người. Thế nhưng qua lời giới thiệu của cụ Tứ, nồi cháo cám như một món ăn gì đấy đặc biệt lắm. Đặt trong bối cảnh khốc liệt của nạn đói, khi con người bị đẩy đến ranh giới mong manh của sự sống và cái chết thì món cháo cám ấy là cả một sự cố gắng mới có được, nó là tấm lòng của người mẹ dành cho con.
Nồi cháo cám không chỉ gợi liên tưởng về hiện thực thê thảm của con người ngày đói, bởi như lời bà cụ Tứ tâm sự với các con thì “Xóm mình có khối người không có cám mà ăn ấy chứ” mà qua đó còn bộc lộ được vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện, từ bà cụ Tứ, anh cu Tràng đến người vợ nhặt. Qua việc chuẩn bị “quà cưới” cùng những lời động viên các con trong bữa cơm, bà cụ Tứ đã bộc lộ được tấm lòng thương con sâu sắc. Trong cái đói, bà vẫn quan tâm đến những giá trị tinh thần, việc chuẩn bị nồi cháo cám thể hiện sự trân trọng, yêu thương của bà cụ Tứ với người con dâu mới. Nồi cháo cám ấy trở nên thật đặc biệt không phải bởi giá trị, hương vị của món ăn mà đó là tình yêu thương, tấm lòng bao la của một người mẹ. Đến đây người đọc không khỏi bồi hồi, xúc động bởi trong cái đói cùng cực thì tình yêu của người mẹ dành cho con vẫn không thay đổi, không những thế người mẹ ấy còn gieo niềm tin, hi vọng cho các con về một tương lai tươi sáng “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Anh Tràng cũng có sự thay đổi lớn, không còn là người đàn ông ngờ nghệch, vô tâm thường ngày mà trở nên chín chắn, trưởng thành hơn. Trong bữa cơm ngày đói, khi ăn miếng cám “đắng chát và nghẹn bứ ở cổ” thì Tràng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, cách ứng xử này thể hiện được khéo léo, tế nhị để bữa cơm không bị trùng xuống bởi ám ảnh đói khát. Mặt khác, nhìn vào sự trầm tư của Tràng ta có thể thấy được Tràng hiểu được hoàn cảnh gia đình, bắt đầu ý thức được trách nhiệm của bản thân với vợ, với mẹ và với gia đình nhỏ của mình.
Thông qua chi tiết nồi cháo cám, ta còn thấy được sự thay đổi đáng ngạc nhiên của người vợ nhặt. Không còn là một người đanh đá với những lời nói chao chát, chỏng lỏn như khi còn ở chợ Huyện, khi về làm dâu thị trở nên dịu dàng, rất đúng mực. Thị hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám, thế nhưng không để mẹ chồng buồn lòng, thị vẫn cố gắng nuốt xuống miếng cháo đáng chát. Để xua đi không khí bữa cơm vừa trùng xuống, Thị đã chủ động kể về câu chuyện phá kho thóc Nhật của người dân mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Có thể thấy người vợ nhặt đã coi bà cụ Tứ và anh Tràng là gia đình, người thân của mình. Mọi hành động, lời nói của Thị đều cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình và có lẽ Thị cũng đã sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những ngày tháng khó khăn sắp tới.
Có thể nói, “nồi cháo cám” là một chi tiết đắt giá trong truyện ngắn Vợ nhặt, nó không chỉ góp phần phát triển nội dung câu chuyện, tái hiện sống động mà cũng đầy xót xa về cuộc sống đói nghèo, túng quẫn của con người trong nạn đói mà còn chứa đựng giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc. “Nồi cháo cám” góp phần bộc lộ những nhân cách tốt đẹp bên trong các nhân vật, đó là vẻ đẹp của tình thương, của khát vọng sống và khát khao hạnh phúc. Dẫu đứng bên bờ vực của cái chết thì con người vẫn dành cho nhau những tình cảm tốt đẹp, họ không ngừng hi vọng vào một tương lai tươi sáng.
Bài làm mẫu 2
Đôi khi trong những tác phẩm lớn, người đọc sẽ không thể nào nhớ hết các tình tiết trong chuyện mà họ chỉ nhớ đến một chi tiết đắt giá đã là đủ rồi. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hình ảnh nồi cháo cám để để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống khổ cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Điển hình cho những người dân trong thời kỳ này là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nghèo đói đến vậy, việc anh lấy vợ đã gây lên sự ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi giữa cảnh đói nghèo không lo được cho mình mà anh còn “rước cái của nợ ấy về”. Chính vì thế trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người ta không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ ấy. Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện tình yêu thương với con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Trong khung cảnh nghèo đói của xã hội lúc bấy giờ, cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên đã phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào với bữa cơm đón nàng dâu thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu bữa cơm như vậy không hề ngon một chút nào. Tuy nhiên cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì nấy đều muốn thể hiện sự vui vẻ trong hoàn cảnh này.
Nhưng có lẽ đây cũng là niềm vui thực sự khi 3 con người ấy luôn muốn vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt để trân trọng niềm hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, khi trong cảnh nghèo đói vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới. Có lẽ vì điều này nên trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà…. ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những điều tốt đẹp để hy vọng có một tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là mong ước của tất cả mọi người trong thời kỳ khó khăn ấy.
Trong không khí vui vẻ của bữa cơm gia đình, bà cụ “lật đật chạy xuống bếp bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!”. Nhưng thực chất đó lại là một nồi cháo cám. Hình ảnh này được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, nhiều người không có nổi cám mà ăn, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món ăn xa xỉ đối với nhiều người khác. Chính vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Cả 3 đều rất vui vẻ tiếp nhận nồi cháo cám. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng dù cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng đã chấp nhận hoàn cảnh, không còn trở nên đỏng đảnh như trước và thị đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Có được những điều này có lẽ là do cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn sẽ đến với họ.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân văn sâu sắc. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy nhiên trong hoàn cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy được tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng trong bờ vực của cái chết lay lắt ấy, người ta chỉ nghĩ đến những đau khổ, bất hạnh, nhưng không, ở hoàn cảnh ấy người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ đối với chồng và trách nhiệm của một người chồng đối với gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.
Qua bút pháp tả thực cùng mới việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh dân dã và tượng trưng đã góp phần thể hiện sự thành công của tác phẩm. Những tài hoa trong nghệ thuật viết truyện của nhà văn Kim Lân cũng giúp người đọc hiểu và thông cảm cho những con người ở thời kỳ đó. Đồng thời, ta cũng thấy được tình cảm chân thành và tác giả đã dành cho những nhân vật của mình.
Bài làm mẫu 3
Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó phải thể hiện được dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong tác phẩm đó. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh nồi cháo cám vào trong tác phẩm, qua đó làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của nhà văn đối với cuộc đời và con người.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống cùng cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Tiêu biểu cho những người nghèo đói là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nhà khó khăn đến vậy, việc lấy vợ của anh khiến cho ai nấy đều ngạc nhiên hết sức. Bởi giữa cảnh nghèo đói, cận kề với cái chết, nuôi thân mình còn chưa xong vậy mà lại còn đèo thêm miệng ăn, “rước cái của nợ ấy về”. Và trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ. Với chi tiết này, nhà văn cũng muốn nói lên tình yêu thương con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Nếu trong bữa ăn nghèo đói thường ngày thì đã đành, nhưng đây trong bữa sáng đầu tiên nhà có cô dâu mới mà cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy lại càng khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào vì bữa cơm đón nàng dâu mới thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu rõ, với bữa cơm như vậy thì lấy đâu ra mà ăn ngon lành cho cho được. Nhưng ở đây, cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì ai cũng hiểu, ai cũng nén trong lòng và cố làm ra vẻ vui tươi.
Nhưng có lẽ đó cũng là niềm vui thực sự. Bởi lẽ, vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt, con người ta cũng biết trân trọng những hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ chính là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, dù trong cảnh nghèo đói nhưng vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới, thậm chí là còn vui mừng vì những tưởng con mình không có ai để ý đến vậy mà nay con đã lấy được vợ. Chính vì thế mà trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. [..] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những chuyện tốt đẹp để mong tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là những mong ước của tất cả mọi người trong hoàn cảnh khó khăn ấy.
Nhưng vừa mới nhen nhóm lên được chút hy vọng thì thực tại đã đổ sập ngay trước mắt. Khi mà bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ lễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!” nhưng kì thực đó lại là một nồi cháo cám. Đây được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món “chè” xa xỉ hơn nhiều nhà khác rồi. Và vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng tuy cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng không còn chao chát đỏng đảnh như hôm gặp trên phố nữa mà thị đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Chính vì thế mà tất cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong tâm trí người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo rất lớn. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy vậy nhưng trong cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.
Bài làm mẫu 4
Một tác phẩm văn học chạm được đến trái tim người đọc không phải là những trang viết có ngôn từ trau chuốt, mượt mà, dùng từ đắc địa. Kỳ thực một tác phẩm có thể khiến người đọc thấy ngấm phải là tác phẩm có những “chi tiết đắt”, là điểm sáng thổi bùng lên chủ đề tác phẩm. Nam Cao đã đưa chi tiết “bát cháo hành” đầy tính nhân văn trong truyện ngắn “Chí Phèo”, và Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “Nồi cháo cám” vào trong tác phẩm, giữa nạn đói năm 1945 đang hoành hành. Chi tiết “Nồi cháo cám” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn.
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng. Và hơn hết chỉ có một chi tiết nhỏ “Nồi cháo cám” ở giữa truyện dường như đã đẩy cao trào cái đói khổ lên tận cùng và cũng đẩy tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ đến ngưỡng cao nhất. Người đọc khi gấp trang sách lại sẽ bị ám ảnh bởi chi tiết này, cảnh tượng nạn đói năm 1945 dường như hiển hiện ra ngay trước mặt.
Tác giả đã rất khéo léo để lựa chọn đưa chi tiết “nồi cháo cám” vào câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la, vô bờ bến của người mẹ. Giữa cái đói nhưng tình yêu thương vẫn không bị mai một, nó vẫn luôn bùng cháy, chỉ là đôi lúc nó ngấm ngầm chảy trong người.
“Nồi cháo cám” không phải xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện ngay trong buổi sáng hôm sau, buổi sáng đầu tiên của “lễ ra mắt con dâu”, đáng nhẽ ra như bà cụ Tứ đã nói “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Cái sự tình khốn khổ, nghèo đói giữa năm 1945 này thật khiến co người ta phải nghẹn ngào.
Bữa cơm đón dâu giữa nạn đói thực sự thê thảm, “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái không khí đói bao trùm nhưng ai cũng biết, ai cũng nén trong lòng, không bộc lộ ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng của bà cụ Tứ khác hẳn, bà không rủ rũ như mọi ngày, bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện hay. Đây có thể xem là sự chuyển biến tâm lý đột ngột của người đàn bà nghèo khổ. Người mẹ này tuy nghèo đói một đời nhưng rất biết cách chiều con, với lại nhà lại có thêm cô con dâu mới giữa cảnh đói kém triền miên. Có thể nói những lời bà cụ Tứ nói đều gợi mở lên một tương lai tươi sáng của con người và của đất nước.
Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh “nồi cháo cám” khiến người đọc không kìm nổi xúc động “bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói”. Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat, nghẹn ứ ở trong lòng như chính “nồi cháo cám” ấy:
“Chè khoai đấy, ngon đáo để” và “Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
Chi tiết “nồi cháo cám” vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo, chạm đến trái tim người đọc. Về giá trị hiện thực “nồi cháo cám” tái hiện lại cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. Nồi cháo cám ấy cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tâm trí của người đọc, bởi nó có sức ám ảnh quá lớn.
Bên cạnh đó, “nồi cháo cám” còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng người mẹ nghèo thực sự đáng trân trọng. Dù đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành những yêu thương, những ân cần sâu sắc nhất đối với con.
Ngoài giá trị nội dung thì chi tiết “nồi cháo cám” còn mang giá trị nghệ thuật, bởi đây là một chi tiết nghệ thuật, tự bản thân của hình ảnh đó đã mang giá trị trong mình, khiến cho cả câu truyện ngắn trở nên tươi đẹp và ấm áp hơn trong cảnh đói nghèo, chết chóc.
Gấp lại trang sách, hình ảnh “nồi cháo cám” của Kim Lân vẫn luôn quẩn quanh trong tâm trí người đọc. Nó thực sự ám ảnh, thực sự có sức lay động ghê gớm. Nạn đói năm 1945 và những con người thời kỳ đó bằng tình yêu thương và lòng nhân hậu đã có thể vượt qua tất cả.
Phân tích chi tiết nồi cháo cám
Bài làm mẫu 1
Có những chi tiết nghệ thuật đọc rồi là nhớ mãi bởi nó có sức rung động sâu xa, sức ám ảnh lâu bền trong người đọc như “bát cháo hành” của Thị Nở trong Chí Phèo (Nam Cao), như “nồi cháo cám” của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Kim Lân). Nếu bát cháo hành là liều thuốc giải độc đối với những “con quỷ dữ” như Chí Phèo biết quay về cuộc sống lương thiện, thì nồi cháo cám chính là tấm lòng thương yêu chân thực, cảm động của người mẹ nghèo khổ đối với những đứa con trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới.
Gấp trang truyện lại, không hiểu sao trước mắt ta cứ hiện lên rõ ràng như thực hình ảnh “người mẹ tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Có thật chăng món chè cám ngon đáo để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết rằng cỏ một niềm xúc động rất thật cứ dâng lên trong lòng ta trước tấm lòng bà cụ Tứ khi bà “lễ mễ” bưng nồi cháo ra, đon đả tươi cười múc cháo cho hai đứa con.
Nhớ lại cuộc đời dài nghèo khổ của bà, mấy khi trên gương mặt u tối ấy sáng lên một nụ cười? Ngay cả đêm qua, biết con trai đã nên vợ nên chồng, trong giờ phút đầu tiên gặp người con dâu mới, nước mắt khổ đau và lo lắng của bà vẫn chảy nhiều hơn tuy trong thâm tâm bà cũng có chút “mừng lòng” và một vài tia hi vọng về chúng. Vậy thì vì sao trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới lại có chuyện “nồi cháo cám” với nụ cười đon đả làm bừng sáng cả khuôn mặt già nua, nhẫn nhục của bà? Ta hiểu, không phải bà vui cho bà, mà chính là bà đang cố tạo ra những niềm vui, dù còn rất mong manh, cho con trai và con dâu trong ngày đầu tiên nên vợ nên chồng. Tâm lòng người mẹ nghèo thương con thật cảm động. Bà đã dậy sớm, “xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, trong bữa cơm toàn nói những chuyện vui về tương lai như chuyện nuôi gà … Và “nồi cháo cám” chính là đỉnh cao của tấm lòng người mẹ nghèo thương hai đứa con vừa tìm đến với nhau trong cảnh “vợ nhặt” giữa những ngày đói khủng khiếp nhất của năm 1945.
Còn nhớ một điều, đây không phải là một bữa cơm thường nhật hằng ngày, mà là bữa cơm đầu tiên đón dâu mới, bữa cơm ngày “nhị hỉ” thiêng liêng theo phong tục Việt Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với người đàn bà lạ bỗng trở nên thân thiết với mình: “Lẽ ra mẹ phải có dăm ba mâm, mời bà con họ hàng, nhưng Bữa cơm ấy phải tươm tất, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có “một niêu cháo lõng bõng, một dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng”. Ba mẹ con ăn vui vẻ nhưng loáng cái đã hết nhẵn, không còn chút gì trên cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế hụt hẫng sẽ đến trong bữa cơm ngày cưới, điều này, bà đã nhìn thấy trước, và bằng tấm lòng thương yêu của mình, bà đã tìm cách “cứu nguy” cho nó, mục đích là để cho con trai và con dâu có được niềm vui trọn vẹn trong ngày đầu tiện nên vợ nên chồng. Nồi cháo cám có được là do lòng thương con chân thành của bà, cũng là do cách nghĩ hồn nhiên mộc mạc của bà – những bà mẹ nông dân suốt đời lam lũ nghèo khổ.
Bà nấu nồi cháo cám, giấu con trai và con dâu, để đến cái giờ phút nguy kịch đó mới đem ra “cứu nguy” như khi ta xổ ra con át chủ bài lúc ván bài đã đến nước quyết định. Và như ta thấy, bà đã vui vẻ mời chào,đon đả đón lấy bát của con dâu và con trai để múc cháo. Bà còn “nói trại” đi đó là chè khoán, ngon đáo để. Trong chi tiết nghệ thuật này, hai lần Kim Lân miêu tả cái dáng tươi cười, đon đả của bà mẹ với hai đứa con một cách thật chân thành và hồn nhiên. Chính điều này làm ta xúc động, xót thương và cảm phục tấm lòng của người mẹ nghèo khổ. Bà đang vui (điều này hẳn là có vì con trai bà đã có gia đình bà đã có con dâu) hay bà đang cố tạo ra niềm vui cho hai đứa con tội nghiệp của bà đã nên vợ nên chồng trong lúc đói kém này? (Điều này chắc là nhiều hơn, là điều chủ yêu trong lòng bà lúc bấy giờ). Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi ,tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa. Tội nghiệp cho niềm vui của bà – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám “chát xít, nghẹn bứ trong miệng” anh con trai và làm “tối sầm hai con mắt” người con dâu. Và, tiếng cười của bà tắt hẳn khi “một nỗi tủi hờn dâng lên bao quanh mâm cơm”, họ cắm mặt ăn cho xong bữa, ăn mà không nhìn nhau. Kim Lân viết những dòng này tưởng như khách quan, nhưng ta biết lòng ông đau nhói biết chừng nào, bởi chính ông, gia đình ông, trong những ngày đói của năm Ất Dậu ấy, cũng đã từng phải ăn cháo cám, ông đã biết mùi vị của cháo cám là thế nào? Phải, cái nồi cháo cám ấy có gì là quý giá đâu, nhưng tấm lòng người mẹ nông dân một đời nghèo khổ ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, cả con trai và người con dâu mới mà bà đã thương yêu sâu sắc, bà tìm thây ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con. Cái đức hi sinh, vị tha ấy là của bà, của bao bà mẹ nông dân khác mà ta đã gặp trong cuộc đời. Và nồi cháo cám mà Kim Lân đã dành cho bà ở đây, trong phần kết thúc thiên truyện ngắn này, nó vẫn gợi lên sâu sắc âm hưởng đau xót của nạn đói khủng khiếp năm 1945, vẫn giữ lại cái hương vị đằm thắm nhân bản của khát khao tổ ấm gia đình dù trong cảnh “Vợ nhặt”; nhưng trên hết và bao trùm tất cả, đó là tấm lòng nhân hậu cao cả của những người mẹ Việt Nam – “đằng sau manh áo rách là những tấm lòng vàng!”
Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc, sắc mà ta thường gặp ở cây bút viết truyện ngắn sở trường về người nông dân Việt Nam: nhà văn Kim Lân.
Bài làm mẫu 2
Kim Lân (1920- 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng huyện Từ Sơn. Ông là một nhà văn độc đáo và xuất sắc viết về nông dân của làng quê Việt Nam. Ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tiêu biểu phải kể đến “Vợ nhặt”. Tác phẩm ra đời ngay sau cách mạng tháng tám, viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945. Và trong tác phẩm, Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “nồi cháo cám” vào tác phẩm, một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật và giá trị nhân đạo.
Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã khắc họa rất thành công những nhân vật như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng, cùng cuộc sống khốn khổ, thê thảm của những con người giữa nạn đói năm 1945. Và để khắc họa rõ nét hình ảnh đó, chi tiết “nồi cháo cám” dường như đẩy mạch truyện lên cao trào, phản ánh thực tại khốn cùng về cái đói khổ, cùng với tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao nhất. Qua “nồi cháo cám”, người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng nạn đói năm 1945 một cách chân thực, rõ nét nhất.
Câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng được tác giả khéo léo đưa chi tiết “nồi cháo cám” vào để nói lên nỗi cơ cực, đường cùng của những con người đang phải sống trong nạn đói năm 1945. Và trong hoàn cảnh đó, tình yêu thương bao là của người mẹ cũng hiện lên thật rõ nét. Dù đang lúc đói khổ, thì tình yêu thương đó vẫn luôn âm ỉ cháy trong trái tim của những người mẹ. Hình ảnh “nồi cháo cám” xuất hiện trong một tình huống vô cùng đặc biệt. Không phải trong bữa ăn hàng ngày của một gia đình, mà lại xuất hiện ngay trong buổi sáng của lễ ra mắt cô con dâu mới. Bà cụ Tứ ngượng ngùng nói với cô con dâu” kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá , cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này.” Sự đói khổ, nghèo hèn khiến con người ta phải nghẹn ngào.
Mâm cơm dành cho nàng dâu mới trong nạn đói thật thê thảm, “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái đói, cái nghèo bao trùm thì ai cũng biết, nhưng họ nén ở trong lòng, cố không bộc lộ ra bên ngoài. Vậy nhưng trong bữa cơm ấy, tâm trạng của cụ Tứ vô cùng phấn khởi, không ủ rũ như mọi ngày. Bà nói rất nhiều chuyện vui, chuyện hay. Diễn biến tâm lý của người đàn bà nghèo khổ có sự thay đổi rõ rệt. Bà tuy nghèo, tuy khổ nhưng lại rất yêu chiều con, kể cả con dâu mới. Có thể thấy, bà cụ Tứ đang nói những lời vô cùng tốt đẹp, về một tương lai tươi sáng của chính gia đình mình, và của cả đất nước.
Rồi bà lật đật chạy xuống bếp, bưng lên nồi cháo cám. Nói với các con rằng: Chè khoán đây, ngon đáo để; cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ.” Chi tiết này vô cùng đắt giá, gợi lên cái đói, nghèo đến cùng cực. Và dù ăn cháo cám nhưng cả ba người đều ăn rất ngon lành, vui vẻ. Có lẽ vì đây là nồi cháo đong đầy tình yêu thương của người mẹ. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy ấm áp, rằng dù trong hoàn cảnh nào thì tình mẹ vẫn luôn như vậy không bao giờ thay đổi, mẹ luôn hy vọng các con có một tương lai tươi sáng hơn.
Hình ảnh “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt vừa có giá trị hiện thực sâu sắc, tái hiện lại cuộc sống con người nghèo khổ đến tận cùng của nạn đói năm 1945. Lại vừa mang giá trị nhân đạo khi nồi cháo cám ấy nói đến hình ảnh người mẹ với một sự đáng trân trọng và đầy yêu thương.
Bài làm mẫu 3
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo, tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói “bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”, và sau đó là “người chết như ngả rạ”, “thây nằm còng queo bên đường”, “không khí vẩn lên mùi gây của xác người”, rồi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt” và “tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya”…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: “những khuôn mặt hốc hác u tối trong “cuộc sống đói khát”, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”, đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu “áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên”… Số phận của họ có khác gì “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”…
Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn vẹn. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng :từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sống đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy “chon” khi nghĩ “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, nhưng Tràng vẫn “Chậc, kệ!” và dẫn vợ về nhà. Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có “một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy” dâng lên “ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,”; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: “Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Đây là đoạn văn đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quý trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.
Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là “con”, tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.
………
Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu hay nhất
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện Vợ Nhặt 2 Dàn ý & 12 bài văn mẫu lớp 12 tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.