Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 12: So sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu Dàn ý và 6 bài văn mẫu lớp 12 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
So sánh khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu tuyển chọn dàn ý và 6 bài văn mẫu hay nhất. Cả 2 bài thơ đều có điểm tương đồng đó là bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc – triết lí.
Với 6 mẫu so sánh khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng và Vội vàng dưới đây các em sẽ biết cách làm văn thế nào cho mượt, có thể lấy thêm ý văn hay rồi từ đó diễn đạt lại theo lối hành văn của chính mình. Chắc chắn đây sẽ là tài liệu tự đọc, tự học rất bổ ích và thiết thực đối với các em trên con đường phía trước. Chúc các bạn đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới nhé.
Dàn ý so sánh bài thơ Sóng và Vội vàng
I. Mở bài:
– Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc ẩn, hồn nhiên, chân thành, đằm thắm, da diết trong khát vọng đời thường.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
– Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới 1932 – 1945. Ông được đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” bởi những cách tân cả về tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.
“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, được coi là tuyên ngôn sống, tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.
– Cả 2 đoạn thơ trên đều là đoạn kết của hai tác phẩm, thể hiện những khát vọng mãnh liệt.
II. Thân bài:
1. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
– Đoạn thơ thể hiện “cái tôi” ham sống, muốn tận hưởng cuộc đời mãnh liệt. Như một tuyên ngôn của lòng mình, nhà thơ tự xác định một thái độ sống gấp, tận hưởng vì cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời (Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm); ý thức chiếm lĩnh, tận hưởng cuộc sống ở mức độ cao nhất (chếnh choáng, đã đầy, no nê ) những gì tươi đẹp nhất (mùi thơm, ánh sáng, thời tươi ).
– Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
2. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
– Đoạn thơ thể hiện khát vọng lớn lao, cao cả trong tình yêu: ước mong được tan hòa cái tôi nhỏ bé-con sóng cá thể, thành cái ta chung rộng lớn- “trăm con sóng” giữa biển cả mênh mông. Những câu thơ có tính chất tự nhủ mình gợi cách sống, tình yêu mãnh liệt, hết mình: mong muốn được tan hòa vào tình yêu lớn lao của cuộc đời. Đó là cách để tình yêu trở thành bất tử.
– Thể thơ năm chữ với hình tượng “sóng”vừa ẩn dụ vừa giàu tính thẩm mĩ khiến đoạn thơ sâu sắc, giàu nữ tính.
3. So sánh:
– Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, những suy ngẫm trước cuộc đời. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc-triết lí.
– Điểm khác biệt: không chỉ nằm ở phong cách thơ (Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt đầy nam tính, xuân Quỳnh thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính) mà còn trong cách “ứng xử” của mỗi nhà thơ: trước sự “chảy trôi” của thời gian, Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp, tận hưởng, Xuân Quỳnh lại thể hiện khát vọng muốn được tan hòa cái riêng vào cái chung để tình yêu trở thành bất tử …
III. Kết bài:
Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên. Kết luận lại giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn thơ trên.
Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng và Vội vàng – Mẫu 1
“Thơ dù viết về ai, cái gì, xét đến cùng vẫn là sự bộc lộ cái tôi nhà thơ.” (Thanh Thảo). Tiếng nói trữ tình trong thơ bao giờ cũng thuộc về ngôi thứ nhất, là tiếng nói bên trong của một cái tôi cá nhân, cá thể của nỗi niềm, tâm trạng. Vì vậy, cùng nói về khát vọng tình yêu, Xuân Quỳnh nói: “Làm sao được tan ra…Để ngàn năm còn vỗ” (Sóng) còn Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng” lại từng bộc bạch: “Ta muốn ôm…Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Tình yêu vốn là một đề tài quen thuộc đi về trong thơ ca muôn đời. Ta từng thổn thức trước nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, ta từng đau lòng cho mối tình chớm nở của Kim – Kiều, ta từng xót xa cho sự chờ đợi vò võ canh khuya của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Và có lẽ, gắn với tình yêu là muôn ngàn suy ngẫm, muôn ngàn cách nghĩ, muôn vàn khát vọng. Với Xuân Quỳnh – một người phụ nữ với trái tim luôn rực cháy lòng yêu, chị tin vào tình yêu chân chính, chị thể hiện một cái tôi đầy nữ tính, duyên dáng và ý nhị đối với tình cảm thiêng liêng của loài người. Còn với thi sĩ Xuân Diệu, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm “lầu thơ trên mặt đất”, ông khao khát có một tình yêu trọn vẹn và cháy bỏng, muốn đem hết thảy cái dào dạt, mãnh liệt của tâm hồn để chiếm đoạt lấy tình yêu của tạo hóa. Đi về trong hai sáng tác nổi bật là hai cách viết, hai cách thể hiện, mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi người nghệ sĩ, tạo cho thế giới thơ ca những xúc cảm không ngờ, là những “tự truyện của một khát vọng” (J.M.Maulpoix).
“Sóng” là sản phẩm của chuyến đi thực tế về vùng biển Diêm Điền của nữ sĩ. Trước sự ào ạt của sóng bể và ngọn gió của muôn trùng biển khơi, nhà thơ đã không nén nổi lòng mình cất lên tiếng hát của nỗi lòng. Để lại trong bài thơ không chỉ có tình yêu, đó còn là khát vọng, là khao khát của một trái tim yêu nồng nàn, mãnh liệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Hình ảnh sóng hòa vào khát vọng được dâng hiến, hòa mình vào biển lớn tình yêu. Hai chữ “tan ra” thể hiện khát vọng được hóa thân vào sóng để tồn tại trong cái không gian vô tận của biển cả vĩnh hằng. Con sóng lớn ấy muốn hóa thân mình thành trăm ngàn con sóng nhỏ hơn để được hòa mình vào biển khơi vô tận, để trải lòng mình, để quyện hòa và hiến dâng tất cả cho người tình biển khơi. Khát vọng ấy là khát vọng dâng hiến trong tình yêu, muốn dùng tình yêu để nối dài cái hữu hạn, ngắn ngủi của cuộc đời. Khát vọng xem chừng đầy hi sinh đó khiến người đọc nhớ về chuyện nàng tiên cá đã biến mình thành bọt biển. Sự hóa thân ấy dù đau lòng nhưng đó là biểu hiện của sự hi sinh, thà để bản thân tan biến chỉ để cho người mình yêu được hạnh phúc. Phải chăng liên tưởng ấy đã hé mở hình ảnh một người con gái giàu khát vọng hi sinh, sẵn sàng hi sinh tất cả cho tình yêu chân chính? Mục đích của cô gái ấy là gì, phải chăng là:
“Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Sự hóa thân ấy không phải là vô nghĩa, sự hóa thân ấy cũng không phải sự tan biến vĩnh viễn. Sóng sẵn sàng tan ra thành ngàn con sóng nhỏ hơn để hòa mình vào muôn trùng sóng bể, để ngàn năm trôi đi thì những lớp sóng ấy vẫn kéo dài mãi mãi. Những dòng thơ kết lại tác phẩm vẫn mang nhịp đập thổn thức của một trái tim yêu tha thiết và mãnh liệt. Vì vậy, “Sóng” đã trở thành một trong những bản tình ca đẹp nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trước Xuân Quỳnh, từng có một nhà thơ đã có khao khát mãnh liệt như thế, một nhà thơ Mới với cách viết mới, suy nghĩ mới khiến nhà phê bình Chu Văn Sơn từng phải thốt lên: “Trong bầu khí quyển của tinh thần Xuân Diệu, thời gian chỉ có hai mùa: mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu, sự sống, còn mùa thu là màu lá úa, tàn phai, rơi rụng. Cảm nhận thời gian của Xuân Diệu chỉ có hai thì: thì tươi và thì phai”. Khát vọng yêu đương của Xuân Diệu đã từng khắc ghi trong tâm hồn người đọc với những câu thơ giàu khao khát:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Đại từ “ta” được sử dụng nhiều lần như một cách tác giả bày tỏ cái tôi riêng tư của chính mình. Câu thơ như tái hiện lại một cách tay đang ham muốn ôm trọn đất trời, khát khao tận hưởng xuân sắc xuân thì của tạo hóa. Điệp từ “ta muốn” lặp lại kết hợp với các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu” càng thể hiện đậm nét khát khao yêu đương mãnh liệt của “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Có lẽ vì quá đam mê trước cảnh sắc thiên nhiên với sự sống mơn mởn mới chớm nở trên từng cành cây kẽ lá, quá say đắm với mây và gió trời, quá yêu chiều với cánh bướm dập dờn trước gió, cho nên thi sĩ muốn “thâu trong một cái hôn nhiều”. Ông khát khao giao cảm, khát khao chiếm trọn lấy đất trời và cảnh sắc thiên nhiên, để tận hưởng trọn vẹn chúng, để “chếnh choáng” trong hương mật cuộc đời và để ‘đã đầy” trước ánh sáng của tạo hóa ban cho. Đối với Xuân Diệu, không có một tình yêu nào là tình yêu hời hợt. Đã yêu, đã thương, đã say thì phải giao cảm tuyệt đối, phải thực sự quyện hòa vào nhau để được đã đầy và no nê trong hơi men cuộc sống. Nàng Xuân với sắc đẹp và sự trẻ trung của mình đã thu hút được trái tim khao khát của người thi sĩ, khiến ông muốn thâu tóm cả “trời đất, và cây, và cỏ rạng” – sự lặp lại tưởng chừng như thừa thãi đó lại là một màn kết tuyệt đẹp trong khát vọng yêu được mãnh liệt của nhà thơ. Và đúng như Khrapchenko từng nói: “Điều còn lại của nhà văn là cái giọng của riêng mình” – Xuân Diệu, thi sĩ của những nỗi niềm tình cảm mãnh liệt, đã gieo vào lòng người những xúc cảm rất mực dào dạt như thế, đã khắc vào lòng người một dấu triện rất riêng. Và rồi lầu thơ của ông cứ cao lên mãi, bởi nó được xây dựng từ khao khát yêu đương và giao cảm, và khao khát đó chưa bao giờ thôi bùng cháy.
Tuy văn chương là lĩnh vực của sự sáng tạo, nó không cho phép có sự lặp lại, giống nhau nhưng kì lạ thay giữa những người nghệ sĩ lại có một sự đồng điệu giao cảm. Cả “Sóng” và “Vội vàng” đều là tiếng nói của một cái tôi giàu cảm xúc với khát khao giao cảm với đời, với người. Cùng với đó là khát vọng yêu đương cháy bỏng của những trái tim giàu khao khát yêu đương với cuộc đời, những xúc cảm dào dạt và bùng cháy. Và “không khó lối đi nào chung cho hai nhà thơ cả” – mỗi bài thơ đều mang theo những thông điệp độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Nếu như “Sóng” thể hiện một tình yêu đầy nữ tính, khát khao dâng hiến, tận hiến và bất tử hóa với tình yêu thì “Vội vàng” lại đưa ta đến một quan niệm sống rất hiện đại: sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng hết thảy mọi vẻ đẹp trên đời và bởi vì tuổi trẻ chẳng có cơ hội thắm lại lần hai. Có thể nói rằng “Sóng” như một bản giao hưởng tình yêu còn “Vội vàng” là khúc vĩ thanh về khát vọng sống vội vã với cuộc đời tươi đẹp.
Chẳng hẹn mà gặp, hai người nghệ sĩ đã thổi hồn mình vào những trang thơ với xúc cảm dào dạt và mãnh liệt. Một Xuân Quỳnh với trái tim yêu đầy nữ tính, một Xuân Diệu với sự hối hả và mãnh liệt trong cảm xúc – mỗi người đều đã ghi tên mình vào dòng chảy của thời gian, của lòng người. Những áng thơ của họ sẽ còn sống mãi với thời gian.
Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng và Vội vàng – Mẫu 2
Qua tiếng hát anh nhận ra người hát.
Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc”
(“Dagestan của tôi”)
Như những dấu vân tay duy nhất, mỗi người nghệ sĩ đều có cho mình một “vân chữ” độc nhất, không giống bất cứ ai. Vì thế, dẫu cùng dưới một bầu trời, hít một bầu không khí, dẫu chung một đề tài thì cuộc sống dưới con mắt của những người nghệ sĩ cũng không bao giờ là trùng lặp. Có thể thấy điều đó trong cái nhìn về tình yêu qua con mắt của Xuân Quỳnh:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(“Sóng”)
Vơi Xuân Diệu lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). “Sóng” với “em”, hai mà như một, một trong hai, song hành cùng nhau để thể hiện sâu sắc nhất cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Trong tình yêu, người con gái cũng có lúc âu lo: “Cuộc đời tuy dài thế/ Mây vẫn bay về xa” nhưng cuối cùng vẫn chọn cách tin tưởng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
“Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao…” như một sự khắc khoải khôn nguôi trong lòng người phụ nữ. Đến hai câu thơ sau, từ con sông buổi nào, người phụ nữ đã tìm được biển lớn của đời mình. Nhưng phải làm sao để giữa biển lớn tình yêu ấy, em vẫn có thể thấy được con sóng tính yêu của chúng ta? Ước vọng được hóa thân, được níu giữ vĩnh viễn tình yêu tươi đẹp càng trở nên thiết tha. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ?
Mở đầu bài thơ là sự mạnh mẽ, chủ động tìm đến hạnh phúc, kết thúc lại bằng sự hi sinh, yêu thương vô bờ. Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ. Mở đầu bài thơ là ước vọng về hạnh phúc đến cuối bài thơ chính là hành động để tạo dựng và gìn giữ hạnh phúc ấy. Sự song hành hình tượng sóng và em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế vừa chủ động, mãnh liệt, vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành. Đó là một quá trình biến đổi hết sức tự nhiên và cũng đầy can đảm, cao đẹp trong phẩm chất, vẻ đẹp của người phụ nữ. Từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt trong giọng điệu: từ những câu thơ ngắt nhịp nhanh, giọng thơ tự tin, dứt khoát đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng đại dương rì rào sóng vỗ, không nghe rõ thanh âm những vang vọng đến mãi về sau. Với Xuân Quỳnh, thơ là sống, sống là thơ. Nếu nói thơ là chuyện “rút ruột rút gan mình” mà viết, Xuân Quỳnh chính là người như thế. Cứ hết mình sống, hồn nhiên viết, trút trọn vẹn cái tôi của mình vào mỗi thi phẩm, thi tứ, mỗi thi ảnh, thi điều đó là cách thơ Xuân Quỳnh. Không mặt nạ, không son phấn, không vay mượn, không lên gân, Xuân Quỳnh đã gửi mình vào thơ.
Với Xuân Diệu, lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Đoạn thơ tám chữ bỗng gây chú ý, độc đáo với câu thơ ba chữ: “Tôi muốn ôm” khiến cho giọng thơ trở nên đanh lại, mạnh mẽ, biểu đạt mong muốn, yêu cầu được thực hiện hành động. Từ cái “tôi” cô đơn mà cũng kiêu hãnh ở dòng trên đã chuyển thành cái “ta”. Trong cái “ta” vẫn là cái “tôi” kiêu hùng của nhà thơ nhưng còn là biết bao cái “tôi” của mỗi độc giả. Đúng thế. Đừng trước “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” nhưng lại nhận thức được “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua”, “Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” sao khỏi những nuối tiếc, xót xa. Tuổi trẻ phải là yêu, là sống hết mình để níu giữ thời gian, để tận hưởng sự sống tràn đầy này. Cấu trúc “Ta muốn” cùng với một loạt những động từ mạnh: “ôm, say, thâu, cắn” đã thể hiện được ước muốn, sự tận hưởng trọn vẹn ấy. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những ước muốn kia với một loạt các biện pháp liệt kê. Tưởng như ta càng tận hưởng, càng tiếp nhận ta lại càng cảm thấy được cuộc sống càng tươi đẹp và ý nghĩa hơn. Đến cuối cùng là câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Lần đầu tiên, xuân hồng lại được hữu hình hóa để có thể “cắn” được. Động từ “cắn” đã thể hiện cao nhất ước muốn được giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu. Với Xuân Diệu, tất cả không được mơ hồ, phải là cảm giác chân thực. Bởi thế, Thế Lữ mới viết về ông là “Con người của trần thế. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Trong câu thơ, ông Tây tân kì Xuân Diệu cũng đã vận dụng phép tương giao giữa các giác quan- thủ pháp tiêu biểu của các nhà thơ Tượng trưng Pháp.
Với Xuân Diệu, cuộc sống thực tại mới là tươi đẹp và đáng sống nhất. Ông đón nhận cuộc sống bằng tất cả tình yêu, sự nồng nhiệt nhất. Nhưng nhận ra quy luật nghiệt ngã của thời gian, ông sống tận hưởng hết mình, yêu hết mình. Đó mới chính là Xuân Diệu, luôn thiết tha, rạo rực, băn khoăn.
Đối với tình yêu, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu luôn chân thành và nồng thắm nhất, có khát vọng được vĩnh viễn hóa tình yêu. Nhưng hướng tới tình yêu đôi lứa, Xuân Quỳnh lựa chọn dâng hiến hết mình, hòa mình để có thể vĩnh hằng tình yêu đẹp ấy. Đó chính là đức tính hy sinh, là thiên tính nữ trong thơ nữ sĩ, là vẻ đẹp muôn đời của những áng thơ nữ Việt Nam. Còn với tình yêu cuộc sống, Xuân Diệu chọn cách tận hưởng hết mình để vĩnh viễn hóa tuổi trẻ tươi đẹp một đi không trở lại. Đó chính là cách ứng xử của phương Tây dành cho cuộc sống, cho tình yêu. Mỗi cách ứng xử khác nhau với tình yêu, chúng ta lại thêm được những cảm nhận và tình cảm khác nhau.
Đến với mỗi trang viết là một thế giới mở ra, không lặp lại, không giản đơn. Điều đó làm cho văn học dẫu ra đời từ thời của Homere, Kinh thi nhưng sẽ tồn tại với ta đến ngày tận thế, dù là vật không thể mua cũng chẳng thể bán nhưng lại là thứ không thể thiếu trong đời sống con người để ta sống tốt, sống đẹp hơn.
Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng và Vội vàng – Mẫu 3
Tình yêu và khát vọng luôn là những “nguyên tố” cần thiết trong cuộc đời mỗi con người. Bởi chỉ khi khao khát yêu và được yêu, khát khao khát sống và trân quý cuộc sống thì đó mới chính làm nên giá trị của cuộc sống. Và có lẽ vì vậy, hơn ai hết, mỗi nhà thơ, những con người thiết tha với cuộc đời và nhạy cảm trước thời cuộc lại càng hiểu rõ hơn điều đó. Bởi vậy, mà có những vần thơ được viết ra như thay lời muốn nói cho bao kiếp người, bao tình cảm thiết tha và mãnh liệt của con người muốn được thể hiện. “Sóng” và “Vội vàng” là những bài thơ như thế, những bài thơ của khát vọng tình yêu, khát vọng sống và cống hiến.
Cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều ý thức rất lớn về sự chảy trôi của thời gian, dù muốn nhưng vẫn không thể ngưng lại sự chảy trôi ấy.
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi quá”
Cuộc đời có dài thật, nhưng thời gian nào có chậm, vẫn lặng lẽ vụt qua rút ngắn cái hữu hạn của đời người. Đó là nỗi lo âu trước thời gian, nỗi ngậm ngùi trước năm tháng cuộc đời, vừa lo sợ, lại vừa luyến tiếc.
“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Biển kia có rộng và bao la vô tận cũng không thể ngăn cản được mây bay, cả hai vẫn chẳng thể nào gặp gỡ. Và Xuân Diệu cũng thế, cũng lo sợ trước thời gian, cũng vội vàng, cuống quýt:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,”
Ông lo sợ trước tuổi trẻ rồi sẽ dần qua đi, sau tất thảy còn lại sự luyến tiếc, ngậm ngùi mà thôi. Thời gian vốn vẫn vậy, cứ chảy dài, mùa xuân vẫn vậy, cứ tuần hoàn, tới rồi đi, để rồi người chợt nhận ra thanh xuân không còn mãi, tuổi tác ngày một lớn thêm và khi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất. Càng nhận ra thời gian không chờ đợi ai, càng nhận ra sự ngắn ngủi của cuộc đời của tuổi trẻ. Tác giả lại càng ý thức được việc sống của mình hơn, lại càng khát khao yêu và khát khao sống để không phải hối tiếc cuộc đời, hối tiếc về những năm tháng đã qua. Xuân Quỳnh mang mối tình đằm thắm, chân thành, một mối tình mãnh liệt của một người con gái vốn e dè, ngại ngùng, nhưng vẫn thể hiện được sự dũng cảm trong tình yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Của biển lớn tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ”
Một con sóng thôi làm sao có thể làm nên đại dương bao la, mà con sóng ấy phải hoà cùng nhịp điệu của biển sóng, của muôn ngàn con sóng mãnh liệt, vỗ bờ đến biển lớn. Sóng được hoà mình du ngoạn giữa đại dương để mãi mãi trường tồn, bất tử, ngàn năm sóng vẫn vỗ, vẫn đến bên bờ. Cũng như tình yêu của em dành cho anh, không thể giữ cho riêng mình được, phải là tình yêu lớn như biển cả kia, mênh mông như đại dương kia, phải là tình yêu của hai ta, của nhân loại, của người người trên thế gian. Đó không chỉ là biển của thiên nhiên mà còn là biển của tình yêu, là đại dương của tình yêu và tình yêu ấy mãi mãi trường tồn, bất tử, không hữu hạn như đời người, kiếp người. Một khát khao yêu thật cao đẹp và đầy phi thường. Tình yêu dường như là một khát vọng vĩnh hằng, rất đỗi mãnh liệt, thổn thức trong trái tim mỗi con người, trong trái tim tuổi trẻ.
Và Xuân Diệu cũng như thế, ông càng lo sợ thời gian, càng nhận ra đời người ngắn ngủi, hữu hạn lại càng cuống quýt, hối hả, thúc giục con người sống vội hơn để chạy đua với thời gian, để tận hưởng những tinh túy, tươi đẹp của đất trời. Để tận hưởng hương sắc tuyệt mỹ của cuộc đời. Đó là khát khao được thực hiện những điều kì lạ, những ước muốn lạ lùng để giữ trọn vẹn nhất vẻ đẹp của tạo hóa để nắng không thể tàn và hương hoa chẳng vội mất đi:
Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng và Vội vàng – Mẫu 4
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh được làm là hai trong số các nhà thơ nổi bật của thơ ca hiện đại. Nếu Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là bà chúa thơ tình yêu. Ở hai hồn thơ này ta bắt gặp hơi thở tình yêu dạt dào và lòng ham sống mạnh mẽ.
Xuân Diệu từ lâu đã được xem là một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ mới giai đoạn năm 1932 – 1945. Ông được đánh già là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” vì cách sử dụng ngôn từ cũng như cảm hứng thi ca. Khác với những nhà thơ trong cùng giai đoạn thơ của Xuân Diệu không tuân theo cảm hứng dân tộc mà theo cảm hứng lạng mạn. Ông tập trung thể hiện cái tôi cá nhân và lòng ham sống.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.”
Cá tôi mãnh liệt của tác giả được thể hiện rõ ràng qua cụm từ “ta muốn”. Ta là đại từ thể hiện cái tôi cá nhân khẳng định chủ thể khác biệt hoàn toàn với chúng tôi, chúng ta đang thịnh hành. Đoạn thơ được xem là một tuyên ngôn sống của tác giả tự xác định thái độ sống gấp muốn tận hưởng và cảm nhận cái hữu hạn của cuộc đời.
Xuận Diệu muốn ôm từ “sự sống mới bắt đầu mơn mởn” là những thứ nhỏ bé nhất như hạt mầm. Và “riết” những thứ siêu nhiên là “mấy đưa và gió lượn”. Tiếp theo là say trong những “cánh bướm với tình yêu” và “một cái hôn nhiều”. Và tất cả “non nước, cây, cỏ rạng” những thứ trên mặt đất đang tồn tại. Để cho cơ thể chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng và cho no nê thanh sắc của thời tươi. Với hàng loạt các động từ mạnh như “ôm”, “riết”. “thâu”, “say”. “chếnh choáng”, “no nê” đủ thấy lòng ham muốn chiếm lĩnh sự sống của tác giả lớn như thế nào. Qua đoạn thơ này cho thấy Xuân Diệu không chỉ muốn sống một cách thông thường mà muốn sống nhanh sống gấp sống làm sao tận hưởng được hết những mật ngọt của sự sống.
Một nhà thơ nữa tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn và lòng ham sống của con người đó là Xuân Quỳnh. Nhà thơ nữ hiếm hoi là gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Xuân Quỳnh mang đậm vẻ đẹp nữ tính, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu nhạy cảm. Đoạn thơ trích trong tác phẩm “Sóng” dưới đây thể hiện rõ nhất phong cách thơ của bà:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Đối với Xuân Quỳnh thì tình yêu được xem là lẽ sống. Nhưng tình cảm không chỉ hữu hạn trong cái tôi nhỏ bé mà còn được hòa mình vào biển lớn tình yêu của nhân loại. Bà ước mong:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”
Từ “trăm con sóng nhỏ” này hòa mình vào với “biển lớn tình yêu” đấy là cách biến tình yêu trở thành bất tử. Và tình yêu thương từ đó sẽ lan tỏa đến mọi nơi trên thế giới mang đến cho con người một thế giới bình yên và hòa bình cho nhân loại.
Thông qua việc phân tích hai đoạn thơ trên của hai tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh ta thấy cả hai đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt và những suy ngẫm trước cuộc đời rộng lớn. Họ đều thể hiện lòng ham sống mạnh mẽ muốn được hòa mình vào cuộc sống chung của nhân loại.
Nhưng điểm khác biệt là nếu như thì nằm ở cách thể hiện cái tôi cá nhân. Nếu ở Xuân Diệu ta thấy sự mạnh mẽ nam tính thì ở Xuân Quỳnh ta lại thấy sự nhẹ nhàng, nữ tính. Những câu thơ của Xuân Diệu đọc lên cảm nhận được cái tôi mãnh liệt muốn khẳng định ước mướn lòng ham sống của bản thân. Thì những câu thơ của Xuân Quỳnh lại rất nhẹ nhàng đầy thủ thỉ, tâm tình.
Xuân Diệu chọn cách sống gấp gáp để hưởng thụ được hết những hoa thơm trái ngọt trên cuộc đời. Còn Xuân Quỳnh thì lại có ước muốn được hòa mình vào đời sống chung của nhân loại. Từ cái tôi nhỏ bé tiến đến cái ta ngoài biển lớn tình yêu.
Thông qua hai đoạn thơ trên đây chúng ta cảm nhận được lòng ham sống và cái tôi vô cùng lãng mạn của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Mặc dù, họ sinh ra ở hai thời điểm, hai thế hệ khác nhau nhưng họ đều có chung một cái tôi lãng mạn và lòng tin yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.
Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng và Vội vàng – Mẫu 5
Trong muôn lời thơ tiếng hát của “cây đàn muôn điệu” về đề tài tình yêu, nền văn học Việt Nam ta may mắn có được hai đại biểu thơ tình xuất sắc: Một Xuân Diệu – đại diện cho sự khát khao mãnh liệt, sôi nổi- ồn ào, vồ vập – đắm say và một Xuân Quỳnh – đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm, đầy nữ tính nhưng cũng không kém phần mãnh liệt. Giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng định qua thời gian và qua những người yêu thơ. Ở mọi thời đại, thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đều được đông đảo bạn đọc đón nhận, đặc biệt là giới trẻ, những người biết yêu và biết trân trọng tình yêu. Hai đoạn thơ sau đây trong hai thi phẩm “Vội vàng” và “Sóng” sẽ giúp ta nhận ra những giá trị ấy.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông được giới trẻ tấn phong là “Ông hoàng của thi ca tình yêu”. Ông mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. “Vội vàng” được trích trong tập “Thơ Thơ” là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu trước cách mạng.
Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy những âu lo, trắc ẩn nhưng cũng dồn chứa bao khát vọng tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”: Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế, mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ với những cảm xúc tình yêu nồng nàn trong sự dào dạt của sóng xô bờ và nỗi nhớ người mình yêu tràn ngập khắp không gian và thời gian: đêm – ngày, dưới lòng sâu – trên mặt nước, trong mơ còn thức…thì ở đoạn thơ này thi sĩ lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn). “Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài những năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ:
Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống.
Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh.
[…] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.
Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.
Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Khát vọng được hóa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare). Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để tan loãng vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hoà mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.
“Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uýt man). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.
Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).
Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hoà vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.
Thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Sử dụng các phép tu từ: nhân hoá, ẩn dụ…Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế. Giọng thơ mềm mại, nữ tính
Nếu đoạn thơ trong Sóng của Xuân Quỳnh là vẻ đẹp của cái tôi muốn vượt qua sự hữu hạn của đời người để hoá thân vào biển lớn tình yêu; thì đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu lại bộc lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và khát vọng chiếm lĩnh.
Nhận định về Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”. Nhận xét ấy làm ta nhớ tới câu thơ trong bài “Hư vô” của nhà thơ:
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
“Vội vàng” cũng là một bài thơ mang cái tôi như thế. Ở phần đầu của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hoá có sinh ra con người không thể mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, cành còn tơ, đồng nội xanh rì, tháng giêng ngon…Có lẽ chính vì vậy mà thi nhân đã khép lại bài thơ bằng một đoạn thơ mang sắc màu ái ân mãnh liệt.
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời.
Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió” nhưng ở đoạn thơ cuối này cái tôi ấy đã hòa thành cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời. Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của “cuộc sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa miêu tả. Nó gợi cảm giác sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, khiến cho thi nhân tràn lên bao khao khát:
“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây đa quấn quýt cả vườn xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất”
(Thanh niên)
Và đằng sau khao khát “ôm cả sự sống mơn mởn” ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã tràn đầy nỗi yêu:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ “ta muốn” được điệp đi, điệp lại, như nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “Ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi.
Câu thơ:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thoả thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm – sự sống” – “riết – mây đưa, gió lượn” – “say – cánh bướm, tình yêu” – “thâu – cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
Ta muốn cắn vào ngươi !
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật : điệp ngữ “Ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần ; sử dụng động từ mạnh : thâu, riết, say, hôn, cắn; giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo thể hiện cái tôi tràn đầy cảm xúc của tác giả.
Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Vội vàng” của Xuân Diệu lại có những điểm giống nhau đến không ngờ.
Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Bởi vậy ngoài những điểm giao thoa, tương đồng thì giữa hai đoạn thơ cũng mang nhiều điểm riêng biệt tạo nên sức hấp dẫn riêng:
Khát vọng trong “Sóng” là khát vọng của tình yêu lứa đôi, là khao khát dâng hiến đến tận cùng, khát vọng thăng thiên, bất tử hoá tình yêu. Còn trong “Vội Vàng” – Xuân Diệu thể hiện một quan niệm sống: sống vội vàng, sống giục giã, cuống quýt, phải tận hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ không còn. Cho nên câu thơ cuối cùng của bài thơ “Vội vàng” như một điểm sáng của toàn bài, đó là nốt vĩ thanh vút bay cao trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Vâng! Chỉ một câu thơ như vậy thôi nhưng nó đã nâng bài thơ lên tầm triết lý: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi nên con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, và đừng lãng phí những tháng năm của đời người, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ. Bởi “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Tình yêu là tiếng gọi của con tim và lý trí. Nếu “Vội vàng” giục giã thi nhân Xuân Diệu sống vồ vập, đắm say với cuộc đời bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”; sống để tận hưởng hương sắc ngất ngây của đời. Thì Xuân Quỳnh lại dịu dàng mà mãnh liệt qua khao khát được tan ra, được hiến dâng cho cuộc đời. Dù mang hai quan niệm khác nhau trong tình yêu nhưng cả hai đoạn thơ và tư tưởng của những thiên tài thi ca Xuân Quỳnh – Xuân Diệu vẫn cất lên những giá trị nhân bản, nhân văn: yêu là sống hết mình cho tình yêu.
So sánh Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu – Mẫu 6
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai thi sĩ lớn của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Nếu thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết với khát vọng hạnh phúc đời thường thì thơ Xuân Diệu là tiếng lòng đắm say, khát vọng sống mãnh liệt trong tình yêu và với cuộc đời. Ở họ, có sự gặp gỡ lớn trong cách thể hiện khát vọng tình yêu của tuổi trẻ.
Khát vọng tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy khao khát. Khát vọng được hòa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare).
Khát vọng muốn hòa nhập tình yêu của mình để ngàn năm còn vỗ . Đây là khát vọng muốn được vĩnh cửu hóa, bất tử hóa tình yêu. Trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh ta thấy được một tư tưởng nhân văn : ” yêu và sự hiến dâng” , chữ ” hiến dâng” không được hiểu theo nghĩa thông tục . Tình yêu của cá nhân không tách rời cộng đồng. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh năm 1968 khi đất nước đang có chiến tranh ta càng hiểu một cách thấm thía và sâu sắc về tình yêu và những khát vọng của những con người trong thời đại ấy. Khát vọng tình yêu trong Vội vàng của Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu bộc lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và giàu khát vọng. Khát vọng của Xuân Diệu là khát vọng tắt nắng và buộc gió. “tắt nắng ” để màu hoa không tàn, “buộc gió” để hương đừng bay đi. Nắng và gió, hương và hoa ở đây chính là mùa xuân của đất trời với bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ. Đó là “hoa đồng nội xanh rì”, “là cành tơ phơ phất”, là “khúc tình si của yến anh”, là “mây đưa gió lượn” ….mùa xuân ấy thật thanh tân diễm lệ đầy quyến rũ như bờ môi thiếu nữ “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. “Hương” với “màu” ở đây là những ẩn dụ để nói đến tuổi trẻ của đời người. Xuân Diệu là người luôn lo sợ về thời gian , về tuổi tác vì theo nhà thơ:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
Cho nên Xuân Diệu khát vọng chiếm lấy quyền năng của tạo hóa để vũ trụ ngừng quay, thời gian ngừng trôi , để thi nhân tận hưởng những phút giây đẹp nhất của đời người. Đây cũng chính là một khát vọng rất nhân văn.
Khát vọng trong Sóng là khát vọng của tình yêu lứa đôi, là khao khát dâng hiến đến tận cùng. Còn trong Vội Vàng thì thể hiện một quan niệm sống : sống vội vàng, sống giục giã, cuống quýt, phải tận hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ không còn.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 12: So sánh bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu Dàn ý và 6 bài văn mẫu lớp 12 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.