Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác (Sơ đồ tư duy) 3 Dàn ý & 21 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 21 bài Cảm nhận Viếng lăng Bác SIÊU HAY, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, sẽ giúpcác em học sinh lớp 9 cảm nhận rõ tình cảm tha thiết, sự xót thương vô hạn mà nhà thơ Viễn Phương dành cho Bác Hồ kính yêu.
Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương cũng là tình cảm thiết tha, chân thành của toàn thể những người con miền Nam khi lần đầu ra viếng lăng Bác. Để hiểu hơn về bài thơ, các bạn hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây của Thcslytutrongst.edu.vn nhé:
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
- Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác
- Dàn ý cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác (3 mẫu)
- Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn
- Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất (15 mẫu)
- Bình luận bài thơ Viếng lăng Bác
- Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác
- Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác
- Cảm nhận bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
- Cảm nhận Viếng lăng Bác hay nhất
Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Viễn Phương
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
2. Thân bài
a) Cảm xúc của tác giả trước cảnh quan bên ngoài lăng (khổ 1)
* Câu thơ thứ nhất như một lời thông báo giản dị mà chứa đựng nhiều tình cảm lớn lao.
- Cách xưng hô “Con – Bác”: Thể hiện sự gần gũi, thân thiết, không có khoảng cách.
- Tác giả dùng từ thay thế “thăm” không phải “viếng” làm vơi bớt đi nỗi đau đớn ẩn sâu trong đáy lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.
- Cụm từ “Con ở miền Nam” vừa thể hiện nỗi đau mất mát, vừa thể hiện niềm tự hào lớn lao: Miền Nam gian khổ mà anh dũng.
- Hình ảnh ấn tượng: “hàng tre” vừa có nghĩa thực (là loài cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam), vừa có nghĩa biểu tượng (hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp…)
- Dùng từ cảm thán: “Ôi!” biểu thị niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre.
b) Cảm xúc của nhà thơ trước hình ảnh dòng người chầm chậm vào lăng viếng Bác ( khổ 2).
– 2 câu thơ đầu: Cách dùng từ đặc sắc, giàu sức sáng tạo: cặp từ tả thực và ẩn dụ sóng đôi.
- “Mặt trời” thứ nhất: Là mặt trời từ thiên nhiên của tạo hóa.
- “Mặt trời” thứ 2: Là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác.
- Chi tiết “rất đỏ” đã gợi lên một trái tim đầy yêu thương, nhiệt huyết vì nhân dân của Bác.
– 2 câu thơ sau:
- Điệp từ “ngày ngày”
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực gợi tả hằng ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương.
- Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ: Tác giả ví dòng người dài như kết thành tràng hoa để dâng lên Người.
c) Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài của Bác trong lăng (4 câu tiếp theo).
Tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng, thổn thức:
- Từ ngữ “giấc ngủ bình yên”: Chỉ là giấc ngủ bình thường, không phải giấc ngủ vĩnh viễn. Bình yên trong niềm yêu thương của con người và vạn vật.
- Hình ảnh “vầng trăng” được nhà thơ dùng để ví với Bác.
- Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” gợi lên những suy ngẫm về con người vĩ đại, cao cả, bất diệt.
- Câu thơ cuối là một sự thật: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là một nỗi đau vô hạn, xót thương. Dù lí trí đã không muốn tin đó là sự thật.
d) Cảm xúc của tác giả trước lúc sắp phải về miền Nam (khổ cuối).
- Lòng thương nhớ bấy lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào. Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương, lưu luyến không nỡ rời xa.
- Điệp từ “muốn làm” cùng các hình ảnh đứng sau đó đã tạo nên nhịp thơ dồn dập diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ và của tất cả mọi người.
- Hình ảnh cây tre được lặp lại ở câu thơ cuối mang thêm một ý nghĩa mới.
3. Kết Bài
- Bài thơ là nỗi lòng không chỉ của nhà thơ mà của hàng triệu trái tim nhân loại muốn thể hiện sự thành kính, biết ơn sâu sắc tới vị lãnh tụ kính yêu của cả nước.
Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn
Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra thắng lợi, đất nước thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Bài thơ thể hiện lòng kính yêu và cả sự xót đau vô hạn của Viễn Phương và cả của nhân dân miền Nam đối với Bác kính yêu.
Khổ một là cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy hình ảnh hàng tre:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ là một lời thông báo nhưng lại gợi ra nỗi xúc động của người con phương xa. Cách xưng hô “con-Bác” vừa thiêng liêng, thành kính vừa gần gũi, thân mật. Nỗi đau chia cắt nén lại trong chữ “thăm”, con từ miền Nam ra thăm nơi cha ở, thăm chỗ cha nằm. Lời thơ là tiếng nói trái tim chân thành, tha thiết như nén hương thơm, được Viễn Phương thành kính dâng lên người cha kính yêu.
Từ miền Nam, sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được ra viếng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và ấn tượng đậm nét là hàng tre bát ngát, xanh xanh đứng thẳng hàng trong sương sớm:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Cây tre là biểu tượng của dân tộc với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường. Thán từ “Ôi” không chỉ thể hiện niềm xúc động, nghẹn ngào mà còn thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả khi được gặp lại ở lăng Bác một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam. Quanh lăng Bác, hàng tre vẫn đứng thẳng hàng canh giấc ngủ cho Người, cả dân tộc vẫn đoàn kết và quần tụ quanh người cha già kính yêu ngay cả khi Người đã nằm xuống.
Sang đến khổ thơ thứ 2, Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc về Bác, về những dòng người vào viếng Bác. Hai câu thơ đầu rực sáng với hai hình ảnh “Mặt trời”:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Vầng “mặt trời trong lăng rất đỏ” chính là Bác. Bác là vầng mặt trời của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người mang đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp ấy đã thể hiện công lao vĩ đại, không gì có thể sánh được của Bác với đất nước, con người Việt Nam. Sự xúc động và lòng biết ơn vô hạn đã giúp nhà thơ có sự sáng tạo độc đáo khi nhận ra dù đã nằm trong lăng, Bác vẫn là vầng mặt trời rất đỏ, một màu đỏ nồng nàn, rực rỡ tỏa ra từ trái tim, từ nhiệt huyết của Bác khiến mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ phải khâm phục, ngưỡng mộ.
Song hành với hình ảnh mặt đi qua trên lăng là hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ. Dòng người vào trong lăng được đặt trong một không gian đặc biệt, không gian thương nhớ. Cấu trúc “Ngày ngày đi…” lặp lại nhấn mạnh sự song hành của mặt trời và dòng người như khẳng định một quy luật: mặt trời đi qua trên lăng còn dòng người đi trong thương nhớ. Nỗi nhớ thương người cha già kính yêu của cả dân tộc Việt Nam là vô tận. Dòng người được miêu tả bằng hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, độc đáo “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Từ một hình ảnh thực, dòng người với vòng hoa đủ loại màu sắc, quần áo trông xa như một tràng hoa, tác giả đã đưa ra một hình ảnh tượng trưng đặc sắc. Mỗi con người là một bông hoa, cả dòng người kết thành một tràng hoa dâng lên Bác những gì đẹp nhất của mình. Hình ảnh ẩn dụ “Bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương khẳng định cuộc đời Bác như một mùa xuân vĩnh hằng.
Khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Hai câu thơ cân đối, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng và yên tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Bác đang ngủ trong một giấc ngủ bình yên và thanh thản. Gam màu của mạch thơ như chói lọi và rực rỡ của khổ thơ trên đã chuyển thành một gam màu trong sáng, tuyệt đẹp, dịu nhẹ: vầng trăng sáng dịu hiền nâng niu giấc ngủ bình yên ấy. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ gợi về tâm hồn thi sĩ cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót khôn nguôi của tác giả được thể hiện sâu sắc ở hai câu thơ:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Dù vẫn tin trời xanh là bất diệt nhưng vẫn đau đớn về sự ra đi của Bác. Lí trí vẫn khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu) mà vẫn nghe thấy đau nhói ở trong tim. Câu thơ cuối cùng trực tiếp thể hiện nỗi đau xót khôn nguôi của người trước một mất mát không gì có thể bù đắp được.
Khổ thơ cuối cùng là nguyện ước của tác giả, nguyện ước được ở mãi mãi bên Bác. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc của người Nam Bộ. “Mai về” có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy thương, thấy nhớ, thấy lưu luyến chẳng muốn xa rời. Càng không muốn chia xa thì nguyện ước được ở bên Bác càng mãnh liệt:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Tác giả gửi gắm lòng mình nhập vào cảnh vật ở lăng Bác. Ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng đó là nguyện ước được sống, được cống hiến mình cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với nhịp điệu dồn dập ở câu thơ cuối đã khẳng định nỗi niềm tha thiết và nguyện ước chân thành, mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Hình ảnh cây tre ở cuối bài tạo nên kết cấu đầu cuối tương xứng. Ước muốn được làm cây tre trung hiếu bên lăng Bác là ước muốn cao đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong những ước nguyện được hóa thân của nhà thơ. Cây tre trung hiếu là cây tre trung với Đảng, hiếu với dân. Tình cảm thủy chung, ân nghĩa làm âm hưởng câu thơ thêm tha thiết, lắng đọng mãi mãi trong dư âm của bài thơ.
“Viếng lăng Bác” là bài thơ đẹp và hay của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần được vào thăm lăng Bác. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam dành cho người cha già kính yêu. Với những nét đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, bài thơ đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất
Mỗi tác giả đều có những xúc cảm riêng khi viết về Hồ Chí Minh, là xót xa, nuối tiếc, tự hào, ngưỡng mộ cho một đời người vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên từ miền Nam ra thăm lăng Bác cũng đã giật mình nhận ra có những thay đổi trong chính cảm xúc của mình khi nhìn thấy Bác đang ngủ yên lành. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là lòng thành kính, ngưỡng mộ, biết ơn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại.
Năm 1976, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành; tác giả theo đoàn từ Nam ra viếng lăng Bác. Cảm xúc của một người con lần đầu tiên ra thăm lăng Bác thực sự dồn nén trong trái tim của tác giả. Bài thơ như một lời tri ân, lòng thành kính của một đứa con phương xa được trở về thăm người. Có lẽ những câu thơ này như nói hộ tấm lòng của rất nhiều người, rất nhiều con dân Việt Nam được ra thăm lăng Bác.
Xuyên suốt bài thơ chính là mạch cảm xúc rưng rưng, xúc động, không kìm nổi lòng mình khi đứng trước một người anh hùng dân tộc. Bài thơ được mở đầu như một tiếng reo vui:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Một tiếng reo vui nhẹ nhàng, một tiếng “con” chân thành và sâu sắc của một người con từ phương xa. Câu thơ trở nên mềm mại, cuốn hút, chan chứa tình cảm. Một hành trình từ miền Nam ra tận miền Bắc để chỉ được nhìn ngắm Hồ Chí Minh một lần. Mặc dù Bác Hồ đã không còn nữa nhưng nhà thơ không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm” rất nhẹ nhàng, tình cảm. Điều này cho thấy rằng mặc dù Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ nhưng lại rất gần gũi, thân thiết với nhân dân. Người đọc cảm nhận được rằng dường như Bác Hồ vẫn còn sống mãi, chỉ là Bác đang ngủ một giấc ngủ thật lâu, thật dài.
Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, biểu tượng cho sự dẻo dai, kiên cường, tinh thần không khuất phục của cả dân tộc ta. Mặc dù bão táp mưa sa nhưng hàng tre vẫn kiên cường, hiên ngang và bất khuất như chính tinh thần quật cường của dân tộc ta.
Viễn Phương mang một trái tim yêu thương và ngưỡng mộ với chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã mượn hình ảnh “mặt trời” biểu tượng cho Bác Hồ vĩ đại, luôn sống mãi với đất nước:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Rõ ràng hình ảnh “mặt trời” ở hai câu thơ hoàn toàn có ý nghĩa khác nhau. Một mặt trời thực của thiên nhiên, một mặt trời mang giá trị ẩn dụ, tượng trưng cho người cha già dân tộc. Phép ẩn dụ này đã làm tăng lên tính biểu cảm, phần nào làm sắc nét hơn tình cảm thương yêu, trân trọng mà Viễn Phương dành cho Người. Mặt trời luôn tồn tại để soi sáng nhân gian cũng như Hồ Chí Minh còn sống mãi trong lòng dân.
Hòa vào dòng người viếng thăm Bác, Viễn Phương xúc động nghẹn ngào:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Đời người hữu hạn, thời gian vô hạn. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tiếc thương cho dân tộc. Niềm thương nhớ ấy kết thành những “tràng hoa” dâng Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” chính là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến cho dân tộc. Hồ Chí Minh chính là mùa xuân lớn của đất nước ta, cho những kiếp người lầm than trong xã hội.
Tác giả được nhìn ngắm Bác Hồ, có một niềm xúc động sâu sắc:
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác vẫn nằm đây, giữa thủ đô đầy nắng, giữa hàng triệu trái tim của dân tộc đang hướng về Người. Nét “dịu hiền” trên khuôn mặt người chính là tượng trưng cho những gì cao đẹp, thanh khiết nhất của một cuộc đời. Dù nỗi đau còn đó, mất mát còn đó nhưng đất nước luôn nhớ đến người.
Có lẽ khổ thơ cuối cùng người đọc sẽ bần thần trước lời nguyện ước của Viễn Phương:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Những vẫn thơ chân chất, bình dị này khiến cho người đọc “trào nước mắt”. Giây phút tác giả sắp rời xa Người trở về với miền Nam là giây phút ngưng lại nhiều cảm xúc nhất. Điệp từ “muốn” dường như nhấn mạnh hơn nữa khát khao, ước vọng của tác giả được ở cạnh Bác Hồ. Những ước muốn bình dị, mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm.
Thật vậy, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương khiến người đọc không cầm được nước mắt vì tình cảm của một người con dành cho Bác. Qua đó thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng dân quan trọng như thế nào.
……
Bình luận bài thơ Viếng lăng Bác
Trong những ngày đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam sắp đến thắng lợi hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương được ra Bắc viếng lăng Bác. Trước khi chia tay, nhà thơ đã để lại một bài thơ bày tỏ niềm cảm xúc sâu xa, tình yêu thương vô hạn và lòng cảm phục, tôn kính của mình đối với Bác Hồ vĩ đại – người từng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Đoạn thơ mở đầu gợi ra cảnh tượng thiêng liêng, thành kính. Tác giả xưng”con”- đứa con bao năm xa cách nay mới được trở về đứng trước lăng mộ của vị cha già dân tộc. Cách xưng hô đó còn gợi lên một tình cảm ấm áp gần gũi- tình cảm trong gia đình. Tình cảm gần gũi ấm áp đó còn được thể hiện qua hình ảnh” hàng tre bát ngát” trong sương. Hàng tre quen thuộc biết bao. Từ bao đời nay tre vẫn được xem là bản lĩnh, cốt cách con người Việt Nam. Một hình ảnh thật có ý nghĩa.
Tác giả tiếp tục mạch suy tưởng khi đứng trước lăng Người:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên. Mặt trời soi sáng tất cả thế gian. Mặt trời thượng tượng trưng cho chân lý. Dưới ánh mặt trời, mọi vật, mọi việc đều sáng rỏ. Chỉ mặt trời đỏ mới nhìn và “thấy mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh Bác Hồ vĩ đại với trái tim rực đỏ. Trái tim ấy, mặt trời ấy mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt nam, mặt trời thiên nhiên, mặt trời vũ trụ được nhân hoá thể hiện niềm cảm phục của nhà thơ đối với sự nghiệp, con người, cuộc đời của Bác. Nhà thơ còn sáng tạo hình ảnh dòng người kết thành “tràng hoa” dâng bảy mươi chín mùa xuân để thể hiện tấm lòng nhân dân cả nước hướng về Bác.
Khi vào trong lăng tác giả lại tiếp tục suy tưởng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất, Bác vẫn sống. Nằm trong lăng chỉ là giây phút nghỉ ngơi của Bác. Bác ngủ bình yên thanh thản bới Bác đã cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Bác đang nằm “giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền” chính là tấm lòng của nhân dân đối với Bác. Tác giả bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Vẫn biết Bác không bao giờ mất nhưng sự thật là sự thật! Bác đã vĩnh viễn ra đi. Cái “đau nhói trong tim” không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ mà là nỗi đau của tất cả mọi người.
Tác giả chia tay Bác trong niềm cảm xúc dâng trào:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng…
Viễn Phương bộc lộ một cách thành thực ý nghĩ, tình cảm của mình đối với Bác. Đó là phong cách của đồng bào Nam Bộ: rõ ràng, dứt khoát. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Ước nguyện của tác giả hết sức giản dị mà sâu lắng: muốn làm con chim, muốn làm đoá hoa, muốn làm cây tre. Ước nguyện ấy thật chân thành và cảm động. Đó là sự vấn vương lưu luyến của tất cả những ai đã có dịp viếng lăng Người.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hàng tre, kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre hiền lành, quen thuộc. Nhưng đây cũng là một lời hứa của tác giả trước an linh của Bác: luôn giữ mãi cốt cách, phẩm chất của người Việt Nam!
Viếng lăng Bác của Viễn Phương vừa giàu hình ảnh, vừa giàu trữ tình đằm thắm. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thành sâu sắc tình cảm của tác giả, của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu. Viếng lăng Bác đã được phổ nhạc trở thành một trong những bài hát được nhân dân cả nước yêu thích.
Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác
Chiến tranh qua đi đã gần được một thế kỉ, ấy vậy mà mỗi khi nhắc lại, chúng ta vẫn không khỏi đau xót trước những nỗi mất mát, trước những hi sinh của thế hệ đi trước để bảo vệ độc lập, tự do. Trong số những nỗi mất mát của chiến tranh, có sự ra đi của các anh hùng, có sự rời bỏ cuộc sống của những người nông dân áo vải…. nhưng không phải những nỗi đau của chiến tranh mới là đau đớn nhất. Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta còn phải chịu một nỗi đau vô cùng lớn, đó là sự ra đi của Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu của mỗi người dân Việt Nam. Dành cả cuộc đời để giành lấy độc lập, tự do cho đất nước, Người cũng đến lúc phải từ biệt trần thế. Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương đã thay lời mỗi con dân của Bác, nói lên nỗi đau xót, thương nhớ khôn nguôi dành cho Người.
Ta cảm nhận ở nhà thơ trước hết là tấm lòng thành kính, biết ơn của một người con chưa từng một lần được nhìn thấy Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Chiến tranh kết thúc, hòa bình được lập lại ở miền Nam, năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng với đồng bào miền Nam đã có dịp được ra Hà Nội viếng Bác. Tác giả như một người con xa nhà về thăm người cha của mình. Nhà thơ bộc lộ nỗi xúc động nghẹn ngào khi chưa kịp cảm ơn, chưa kịp thể hiện tấm lòng thành kính trước công ơn của Bác mà Bác đã ra đi mất rồi. Nhà thơ sử dụng hình ảnh “hàng tre” đã nói lên hình ảnh của mỗi người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất và ngay thẳng. Ta cảm nhận được thái độ vô cùng tự hào vì là một người dân Việt Nam của tác giả. Nhà thơ cũng như bao người khác, đều biết ơn Hồ Chủ Tịch kính yêu!
Từ tấm lòng thành kính, sự biết ơn dành cho Người, tác giả còn thể hiện nỗi đau xót, xót thương trước sự ra đi của Bác:
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh Bác đang nằm ngủ say giữa “một vầng trăng sáng dịu hiền” cho thấy tâm hồn cao đẹp, cho thấy sự hiền dịu của Người. Nhà thơ đau xót, cảm thấy mất mát vô cùng: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Động từ “nhói” cho thấy sự bật ra của cảm xúc, nhà thơ không thể kìm nén được nữa, từng cơn đau cứ quặn lên trong tim. Dù tác giả biết rằng, Bác ra đi những vẫn ở mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng nhà thơ vẫn không giấu nổi sự xúc động của mình. Phải là một người vô cùng yêu thương, kính trọng Người thì mới có thể có những cảm xúc, những nỗi đau lớn như vậy. Ta thấy ở tác giả tấm lòng đối với Bác, cũng như tấm lòng của cả miền Nam.
Nhưng xúc động nhất có lẽ là ở khổ thơ cuối, khi nhà thơ thể hiện ước muốn cháy bỏng cùng với tâm nguyện được cống hiến cho dân tộc, cho đất nước:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Những giọt nước mắt của tác giả là những giọt nước mắt của sự đau xót, của sự lưu luyến khi vừa mới tới thăm Người được một chút thôi, giờ đã phải rời xa rồi. Trở lại miền Nam là thực tại, không nỡ rời xa là ý muốn trong tâm tưởng của nhà thơ. Để quên đi thực tại đau xót này, nhà thơ đã tự nhủ với lòng mình, đã bộc lộ mong ước được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được mãi mãi ở bên Người. Điệp từ “Muốn làm” cho thấy ước muốn mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim để hót quanh lăng Bác mỗi sớm mai, muốn làm đóa hoa tô điểm thêm cho cảnh vật quanh lăng, tỏa hương thơm ngát…. và muốn làm cây tre để trung hiếu với Người:
“Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Hình ảnh cây tre được tác giả sử dụng rất khéo léo, xuất hiện ở đầu bài thơ và quay lại ở cuối bài thơ. Kết cấu này tạo ra tính biểu tượng cho hình ảnh cây tre, vừa là biểu tượng cho con người Việt Nam, vừa nói lên tấm lòng của tác giả đối với Người. Xúc động biết bao trước tình cảm của nhà thơ đối với Bác!
Là một người dân Việt Nam sống trong thời buổi hiện đại, khi chiến tranh đã kết thúc, dù ta không thể hiểu được hoàn cảnh và những khó khăn trước kia nhưng vẫn cảm thấy được công lao to lớn của Bác dành cho đất nước qua những lời thơ của nhà thơ Viễn Phương. Ông thực sự đã viết rất hay, mạch cảm xúc tự nhiên, lắng đọng theo trình tự vào thăm lăng Bác, qua đó gieo vào lòng người đọc sự xúc động, tình cảm mến yêu dành cho cả Hồ Chủ tịch và cả những người con dân miền Nam như tác giả.
Đọc bài thơ Viếng lăng Bác, ta hiểu được lí do tại sao mà bài thơ được phổ thành nhạc sau này. Đó chính là bởi vì những cảm xúc được cất lên từ tấm lòng chân thành của người viết, từ sự vĩ đại, cao cả của Bác Hồ kính yêu…
Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác
Mùa xuân năm 1975 là mùa xuân đáng nhớ nhất của đất nước ta. Sau hơn 80 năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ, quân và dân ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất hai miền Nam Bắc. Trong giây phút vẻ vang đó, đồng bào ta nhớ đến người Cha già của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân loại – Hồ Chí Minh. Bất cứ ai cũng muốn được một lần đến viếng thăm Bác, kể cho người nghe những thắng lợi mà chúng ta đạt được.
Viễn Phương, một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước, đã có dịp từ miền Nam ra Hà Nội viếng thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1976. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời, ghi lại những cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ lúc bấy giờ, đồng thời là những dòng cảm xúc của nhân dân miền Nam.
Khổ thơ đầu tiên là lời bộc bạch của nhà thơ khi đặt chân lên thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, đặt chân đến nơi Bác Hồ đang yên nghỉ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời thơ bình dị là lời nhà thơ nói với Bác, “ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ toát lên sự tự hào, xúc động đang trào dâng trong lòng của người thi sĩ. Rằng đồng bào miền Nam đã đứng dậy đập tan mọi xiềng xích của bọn cướp nước và lũ bán nước. Giờ đây, những người con miền Nam đã về thăm Bác.
Cặp đại từ “con – Bác” vừa thể hiện sự kính trọng vừa gần gũi, thân thiết. Vì Hồ Chí Minh chính là người Cha của người dân Việt Nam. Biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” giúp giảm đi sự buồn thương, mất mát, tựa hồ như đây là một cuộc đoàn tụ, sum họp chan chứa yêu thương. Trong khung cảnh sương mờ của một sáng mùa thu, nhà thơ phải thốt lên khi thấy hàng tre bát ngát “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.
Bức tranh một miền quê Việt yên bình, dân giã được vẽ nên, tuyệt đẹp. Cây tre là biểu trưng cho con người, tinh thần, cốt cách con người Việt Nam. Bất cứ khi nào, bất kể ở đâu những con người ấy luôn kiên cường, bất khuất, ngay thẳng, trung trực, vượt qua mọi chông gai. Hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” như càng khẳng định thêm điều đó. Chuyến đi “thăm” lăng Bác của nhà thơ giống như một chuyến đi tìm về cội nguồn dân tộc, có truyền thống tốt đẹp, biểu tượng dân tộc luôn hiện hữu.
Trước lăng Bác không phải những gì tráng lệ, rực rỡ, chỉ là hình ảnh cây tre bình dị, thân thuộc. Hàng tre giống một đoàn vệ binh đang canh gác cho giấc ngủ của Bác, cũng là cúi chào đoàn người từ từ tiến vào lăng bằng tất cả lòng thành kính:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Viễn Phương đưa ra hai hình tượng sóng đôi giữa thực tế “mặt trời đi qua trên lăng” và hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”. Mặt trời là nguồn sáng duy nhất của Trái Đất, cung cấp nhiệt và là nguồn sống của nhân loại, đặc biệt mặt trời chỉ có một mà thôi. Vậy mà ở đây có hẳn hai mặt trời? Mặt trời còn lại chính là vị Chủ tịch kính yêu Hồ Chí Minh.
Người chính là mặt trời chân lý, mang lại ánh sáng cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người đã lãnh đạo cuộc cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuối cùng là giải phóng đất nước, thống nhất hai miền.
Câu thơ mang dáng vẻ sôi nổi, bật lên sắc “đỏ” tràn đầy sức sống, chứa chan lòng thành kính gửi đến Bác. Hai câu thơ tiếp chùng xuống, trầm mặc bộc lộ không khí của đoàn người đang tiến vào lăng. Họ đến đây mang trong mình lòng kính yêu vô bờ và nỗi tiếc thương khi Bác mất đi.
Điệp từ “ngày ngày” như khẳng định chân lý rằng tình cảm mà nhân dân gửi đến bác là vô hạn, luôn luôn tồn tại, cũng như mặt trời kia vẫn mọc – lặn đều đặn hàng ngày. Tràng hoa đó không là tràng hoa kết từ những loài hoa bình thường. Đó là tràng hoa của đời được kết thành từ dòng người vô tận dâng lên Bác. Dưới ánh sáng của Bác, những bông hoa đẹp nhất đã nở. Bác chính là nguồn sống, là mùa xuân của đất nước, con người “bảy mươi chín mùa xuân.”
Dòng người từ từ tiến vào nơi Bác năm, nơi chan hòa ánh trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm ở đó, giống như đang chìm trong giấc ngủ yên bình, thanh thản “giấc ngủ bình yên”. Lại một lần nữa nhà thơ sử dụng bút pháp nói giảm nói tránh để kìm nén lại nỗi tiếc thương trong lòng. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền tạo nên khung cảnh thơ vừa lãng mạn vừa hiện thực. Người Cha già dân tộc tỏa ra sự ấm áp, bình dị và giản đơn trong con người, cốt cách. Vầng trán Bác rộng lớn, êm đềm, mãn nguyện với những thành tựu mà nhân dân đạt được, “có cơm ăn áo mặc”, “được tự do”, “được học hành”.
Thế nhưng, đứng trước Bác, nhà thơ không thể kìm nén được sự xúc động: “nghe nhói ở trong tim”. Ngày Bác ra đi là ngày mà đồng bào ta chịu sự mất mát lớn nhất về tinh thần, tiếc thương vô cùng. Mặc dù, đó là quy luật của tạo hóa, và Bác dẫu đã mất nhưng vẫn còn sống mãi trong tâm trí, trong lòng người dân Việt “mãi mãi”.
Cuộc sum họp nào rồi cũng đến phút chia ly, đứng trước lăng Bác nghĩ đến phút xa rời, nhà thơ Viễn Phương không khỏi xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Cảm xúc dâng trào trong giây phút trở về miền Nam thật tự nhiên, xuất phát từ tình yêu gửi đến Bác: “thương trào nước mắt”. Tình thương cứ thế nghẹn ngào, hóa thành nước mắt trào dâng, không thể nào ngăn lại được. Thương nên nhà thơ càng khao khát được ở gần Bác, được hóa thân thành cảnh vật xung quanh lăng. Điệp từ “muốn” tạo âm hưởng quyết liệt, nhấn mạnh hơn nữa mong muốn trong lòng Viễn Phương.
Ông ước được làm “con chim hót quanh lăng”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu”. Nhưng có lẽ, ước mong lớn nhất chính là được tiếp tục đi theo con đường cách mạng chân lý của Bác, được làm “cây tre trung hiếu”. Cây tre đó là hóa thân của nhân cách, tâm hồn Việt, ngay thẳng, chính trực, kiên cường, trung với Đảng, hiếu với dân. Bài thơ mang âm hưởng buồn thương nhưng lại vút lên ở câu kết. Một lời hứa, lời cam kết sẽ tiếp tục cống hiến, hy sinh vì đất nước, nhân dân của nhà thơ.
Cùng với phong cách thơ chân thành, giàu cảm xúc, nền nã, thì thầm, bâng khuâng nhưng không bi lụy, Viễn Phương đã mang đến cho người đọc một chuyến viếng thăm trên dòng cảm xúc chân thật nhất. Thơ bảy chữ mang âm hưởng lãng mạn pha lẫn hiện thực, hình ảnh thơ linh hoạt cùng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa làm tăng thêm giá trị nội dung của bài thơ.
Đúng như Viễn Phương đã chia sẻ cùng bạn đọc, bài thơ thật giản dị: “Bởi tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn rất giản dị”. Giản dị ở câu thơ, lời thơ, giản dị trong cả những suy nghĩ, ước mong. Giản dị, tự nhiên nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Bởi lẽ “Viếng lăng Bác” là kết tinh của dòng cảm xúc chân thành, mãnh liệt của nhà thơ trong chuyến đi thăm lăng Bác. Đó còn là tiếng lòng của người dân miền Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. “Viếng lăng Bác” thực sự là lời tưởng niệm chân thành đến với vị cha già dân tộc.
Khép lại những trang thơ, ta như thấy từng đoàn người kính cẩn, nghiêng mình vào viếng Bác mang theo hành trang là lòng kính yêu vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Cảm xúc của Viễn Phương cũng là cảm xúc của tất thảy người dân miền Nam và người dân Việt nói chung. Hy vọng rằng, sau khi học bài thơ này, các em có thể nêu suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác bằng tất cả cảm nhận chân thành nhất.
Cảm nhận bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường. Viếng lăng Bác là tác phẩm tiêu biểu của viễn Phương giai đoạn sau 1975.
Bài thơ Viếng lăng Bác được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam,nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.
Bài thơ được chia làm 4 phần tương ứng với 4 khổ thơ thể hiện mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự của một cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian. Cảm xúc bao trùm trọn vẹn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.
Cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác đã được diễn tả sâu sắc trong khổ thơ này:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa,. Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen.
Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người chết. “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.
Cách nói giảm, nói tránh có vai trò làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.
Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ Viễn Phương không chỉ có ý tả thực, nhà thơ đã viết hình ảnh hàng tre với bút pháp tượng trưng, biểu tượng (gợi ra một điều gì đó từ một hình ảnh ẩn dụ lớn).
Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam. Tre đại diện cho sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất trước hoàn cảnh. Nơi đâu có đất đai, nơi ấy tre đủ sức mạnh để sinh tồn.
Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam vẫn luôn đứng vững trước âm mưu xâm lược của kẻ thù. Dù có lúc tưởng chừng như bị khuất phục, bị đồng hóa nhưng bản lĩnh kiên cường, bất khuất đã đưa dân tộc đi qua gian khổ, chiến thắng kẻ thù.
Dù “bão táp mưa sa” nhưng tre vẫn “đứng thẳng hàng”. Đó là sức mạnh tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh.
Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.
Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo. Nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng, hơi ấm và ánh sáng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, là động lực của mọi sự sống.
Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo,độc đáo. Đó là hình ảnh của Bác Hồ, một nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh vĩ đại và vĩnh hằng của dân tộc. Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quang vinh, trọn vẹn. Tình yêu thương bao la của Bác tỏa hơi ấm trong lòng mỗi con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.
Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tục bất biến của tự nhiên vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của con người Việt Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác.
Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”. “Tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình. “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm.
Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”– 79 năm cuộc đời của Người. Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.
Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.
Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!
Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng. Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác.
“Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam. Lúc sinh thời, Người từng nói khi nào đất nước thống nhất, Người sẽ vào miền nam thăm đồng bào. Giờ đất nước thống nhất rồi nhưng Bác đã mãi mãi đi xa, không thực hiện được niềm mong ước ấy. nghĩ đến điều đó, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi.
Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người.
Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng.
Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
Viếng lăng Bác thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
Cảm nhận Viếng lăng Bác hay nhất
Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, thể hiện cuộc sống ước mơ khát vọng của đồng bào Nam Bộ. “Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương viết vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam đầu tiên ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác, xúc động ông đã viết lên bài thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.
Trước hết khổ thơ đầu của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc sáng sớm. Sau hơn hai mươi năm xa cách, người con miền Nam mới được về thăm Bác, bao nỗi xúc động nghẹn ngào:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ giản dị tự nhiên như một lời thông báo mà chứa chan tình cảm thân thương. Nhà thơ xưng “con” gọi “Bác”- cách xưng hô quen thuộc của nhân dân ta với vị lãnh tụ vừa gần gũi vừa thành kính. Đặc biệt đối với Viễn Phương còn mang theo bao tình cảm nỗi nhớ thương của miền Nam trong trái tim Bác. Tác giả không nói “ra viếng” mà là “ra thăm”- như đứa con đi xa giờ mới được về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ có gì ngậm ngùi.
Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét của nhà thơ về cảnh quan bên lăng là hình ảnh “hàng tre bát ngát”:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Hình ảnh hàng tre được miêu tả từ xa đến gần gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng: cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam kiên cường bất khuất “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hình ảnh “hàng tre bát ngát quanh lăng” trong cái nhìn xúc động của nhà thơ như hình ảnh nhân dân Việt Nam, cháu con đang quây quần tụ hội bên Bác, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Ra thăm lăng Bác – một nơi trang nghiêm thành kính, người con miền Nam lại bắt gặp hình ảnh rất quen thuộc của làng quê, của đất nước. Thán từ “ôi” đã thể hiện niềm xúc động nghẹn ngào và cả sự ngạc nhiên bất ngờ của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc mặt trời lên. Mặt trời lên cao dần, hình ảnh mặt trời gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
Hai câu thơ rực sáng hình ảnh mặt trời: mặt trời của thiên nhiên theo quy luật vận động vũ trụ “ngày ngày đi qua trên lăng”- thấy một mặt trời khác “mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng rất đỏ là hình ảnh ẩn dụ chỉ về Bác Hồ: nếu như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, sự sống cho vạn vật thì mặt trời Bác đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta. Mặt trời ấy rất đỏ như nhiệt huyết cách mạng, như trái tim yêu thương của Người. Đặt mặt trời Bác sóng đôi trường tồn với mặt trời thiên nhiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn thể hiện lòng ngưỡng mộ ngợi ca sự bất tử của Người.
Chứng kiến dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác trong lòng nhà thơ trào dâng bao xúc động:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Cấu trúc “ngày ngày… đi” được lặp lại khẳng định quy luật tất yếu: còn mặt trời đi qua trên lăng thì còn dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác. Xếp hàng vào lăng viếng Bác đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong đời sống nhân dân ta. Dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác được liên tưởng như “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh ẩn dụ đẹp giàu ý nghĩa bởi mỗi người vào lăng viếng Bác đều mang theo bao tình cảm, nỗi biết ơn người Cha già. Mỗi người là bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác với bao thương nhớ biết ơn. Hình ảnh ẩn dụ ” bảy mươi chín mùa xuân” khẳng định cuộc đời Bác mãi là những mùa xuân vĩnh hằng của dân tộc.
Sang đến khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng viếng Bác. Biết bao xúc động trào dâng khi người con miền Nam lần đầu được đối diện với Bác. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ hình ảnh Bác nằm trong lăng hiện ra thật đẹp:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Cả không gian thời gian như ngưng đọng trước hình ảnh có tính chất vĩnh hằng: Bác đang nằm ngủ một giấc ngủ bình yên thanh thản dưới ánh sáng dịu nhẹ của vầng trăng. Gam màu của đoạn thơ không còn chói lọi rực rỡ mà chuyển sang dịu nhẹ phù hợp với không khí tĩnh lặng trong lăng, vầng trăng như đang nâng niu giấc ngủ của Người. Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng” vừa gợi tâm hồn sáng trong thanh cao của Bác vừa gợi những vần thơ đầy trăng của Người.
Niềm xúc động nỗi xót đau của người con miền Nam được thể hiện thật cảm động trong hai câu thơ sau:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” cũng giống như “mặt trời” ,”vầng trăng”- gợi cái vĩ đại, bất tử của Bác. Trong tâm tưởng của mỗi người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước như trời xanh kia còn mãi. Người đã hóa vào thiên nhiên đất nước núi rừng sự nghiệp của Người mãi là bất tử. Dù vẫn vững tin như thế nhưng trở lại thực tế khi người con miền Nam xa xôi về đến bên Bác thì Bác không còn nữa, nỗi xót đau không gì bù đắp nổi “nghe nhói ở trong tim”. Kết cấu “vẫn biết…mà sao” tưởng như đối lập nhau mà lại hài hòa, thống nhất với nhau trong cảm xúc của người con miền Nam khi lần đầu đối diện với Bác.
Khổ thơ cuối kết thúc bài thơ đã thể hiện ước nguyện của nhà thơ khi nghĩ đến mai về miền Nam. Niềm xúc động trào dâng khi nhà thơ nghĩ đến mai về miền Nam:
“Mai về miền nam thương trào nước mắt”
Câu thơ có cách diễn đạt mộc mạc mà đằm thắm của người Nam Bộ: mai về có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy nhớ thấy thương thấy lưu luyến “thương trào nước mắt”.
Tình cảm ấy đã chắp cánh cho những ước nguyện được hóa thân vào những cảnh vật ở quanh lăng Bác để mãi được ở bên Bác không rời xa:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đấy
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, muốn làm đóa hoa tỏa hương thơm ngát bên lăng, muốn làm cây tre trung hiếu hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Những ước nguyện ấy thật nhỏ bé mà thật đẹp bởi đều là những ước nguyện dâng hiến cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” tạo nhịp thơ dồn dập nhấn mạnh những ước nguyện thiết tha chân thành của nhà thơ. Đặc biệt kết thúc bài thơ ta bắt gặp hình ảnh “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh cây tre được lặp lại ở khổ thơ đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng làm trọn vẹn cho mạch cảm xúc của nhà thơ. Nhà thơ muốn hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Hình ảnh ẩn dụ “cây tre trung hiếu” hay tấm lòng của người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam một lòng trung hiếu với bác nguyện đi theo con đường mà Bác đã chọn.
Bài thơ đã rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tám chữ đan xen những dòng bảy chữ, chín chữ phù hợp với nội dung cảm xúc. Giọng điệu bài thơ vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, phù hợp với tâm trạng cảm xúc khi vào lăng viếng Bác. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt trong bài thơ có nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp gợi sự suy ngẫm sâu xa: “mặt trời”, “trời xanh”, ” tràng hoa”. Với những nét đặc sắc nghệ thuật ấy, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. “Viếng lăng Bác” là nén tâm hương mà người con miền Nam thành kính dâng lên bác kính yêu. Cùng với “Trường ca theo chân Bác” của Tố Hữu, “Hoa trước lăng Người” của Chế Lan Viên,… “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương đã góp phần làm phong phú đề tài Bác Hồ trong thơ ca hiện đại. Ngay từ khi ra đời bài thơ đã được khẳng định và trở thành tiếng lòng chung của mỗi người con Việt Nam đối với Bác. “Viếng lăng Bác” là một trong những thành công sớm nhất viết về Người sau ngày Bác đã đi xa.
Như vậy với thể thơ tám chữ giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng chung của riêng nhà thơ mà còn là tiếng lòng chung của tất cả mọi người đối với Bác. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác (Sơ đồ tư duy) 3 Dàn ý & 21 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.