Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về tình cha con trong bài Nói với con của Y Phương 2 Dàn ý & 7 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
TOP 7 mẫu Cảm nhận về tình cha con trong bài Nói với con của Y Phương, kèm theo 2 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn về tình phụ tử thiêng liêng, cao cả.
Tình cảm cha con trong bài thơ Nói với con được thể hiện qua lời tâm tình thủ thỉ và cách người cha căn dặn con về lẽ sống, cùng niềm tự hào dân tộc. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Thcslytutrongst.edu.vn để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.
Dàn ý cảm nhận tình cha con trong bài Nói với con của Y Phương
Dàn ý 1
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tình cảm cha con được thể hiện qua lời tâm tình thủ thỉ và cách người cha căn dặn con về lẽ sống và tinh thần tự hào dân tộc
2. Thân bài
- Tình cảm cha con thể hiện ở những lời cha kể cho con nghe về những kỉ niệm hạnh phúc khi con còn nhỏ
- Tình cha con khi cha mong muốn con được lớn lên trưởng thành với tinh thần dân tộc quật cường và cách sống yêu thương đồng bào, ý chí kiên cường
- Tình cha con thể hiện qua lời dặn dò, nhắn nhủ
- Đặc sắc nghệ thuật
3. Kết bài
- Nhận xét khái quát về tình cảm cha con
Dàn ý 2
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Y Phương: là một nhà thơ dân tộc sinh ra ở vùng đất nổi tiếng có truyền thống cách mạng Cao Bằng.
- Giới thiệu tác phẩm “Nói với con”: là bài thơ đặc sắc nhất gợi cảm nhiều nhất của Y Phương.
II. Thân bài
– Khái quát nội dung của bài thơ: Xuyên suốt bài thơ là nguồn cảm hứng, tình cảm thiêng liêng tình phụ tử, còn song song với tình cảm yêu quê hương đất nước. Bài thơ cho ta thấy cái nhìn nhân văn, cao cả của tác giả qua cách giáo dục con mình.
– Bút pháp nghệ thuật của tác giả:
+ Sử dụng những ngôn ngữ mộc mạc giản dị, nhưng có sức gợi hơn bất kỳ một thủ pháp nghệ thuật cao siêu nào.
+ Những lời thơ của tác giả cũng như chính cái bụng, con người tác giả cũng giống như bao con người dân tộc khác sống ngay thẳng, kiên trung, kiên cường và gắn bó với núi non quê hương đất nước.
Trong khổ thơ đầu tiên Y Phương viết:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói,
Hai bước tới tiếng cười
Ý nghĩa của hình ảnh gia đình trong khổ thơ này: Y Phương đã vẽ ra một ngôi nhà hạnh phúc nhất, nơi mà đứa trẻ sinh ra được nhận đầy đủ tình yêu thương của người cha, người mẹ. Mái ấm gia đình là chiếc nôi đầu tiên mà một em bé cần có. Chiếc nôi này sẽ chấp cánh cho con những giấc ngủ ngon, với những ước mơ đẹp, nuôi dưỡng tâm hồn con khi trưởng thành.
– Trong khổ thơ thứ hai tác giả bắt đầu dạy con mình những bài học đầu tiên về truyền thống của quê hương mình, gợi cho con về tình yêu sự gắn bó với tổ tiên, đồng bào
– Giá trị nhân văn trong những câu thơ của tác giả: Tác giả muốn con không được quên những tinh hoa truyền thống lâu đời của những người dân tộc. Nó chính là bản sắc văn hóa, là tiếng nói riêng của mỗi vùng miền, nên con phải giữ lấy, nhớ lấy và đừng bao giờ đánh mất nghe con:
– Tác giả gợi nhớ cho con mình về những kỷ niệm ngọt ngào, về cha mẹ, có cha mẹ thì mới có con hôm nay. Tác giả muốn con mình hãy nhớ ơn sinh thành dưỡng dục, nhớ ân nghĩa tình làng xóm. Cha mẹ nào cũng muốn con cái mình hãy sống xứng đáng với những truyền thống tốt đẹp mà dân làng tổ tiên ban tặng. Muốn con mình sau này sẽ có ích có sự đóng góp cho sự phát triển của quê hương, dân tộc mình.
– Tác giả muốn dạy con mình cách sống hiên ngang, kiên cường, vượt lên trên số phận. Trong đường đời nhiều gập ghềnh sỏi đá, nhiều cám dỗ, khiến con vấp ngã trong những lúc như vậy tác giả muốn con mình hãy bền lòng, vững chí kiên cường anh dũng bước qua, đứng lên để trưởng thành hơn, để xứng đáng với truyền thống lâu đời mà người dân quê mình vẫn có.
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
– Phân tích tính nghệ thuật và giá trị nhân văn trong những câu thơ của tác giả: Trong những câu thơ trên giọng điệu tha thiết, nhưng lại chất chứa sự uy nghi quyền lực tác giả muốn răn dạy cho con. Tác giả là một người cha muốn khuyên nhủ con trai mình những điều sâu sắc nhất về giá trị làm người, giá trị đạo đức, những chuẩn mực xã hội mà con cần phải nhớ khi trưởng thành.
III. Kết bài
– Nêu lên cảm nghĩ của bản thân về bài thơ?
Ví dụ: Bài thơ “Nói với con” đi vào trong lòng người đọc bởi sự dịu dàng, nhưng nhiều triết lý sâu sắc, bởi tình yêu âm thầm nhưng mãnh liệt của tình cha dành cho con. Bằng những lời thơ giản dị của mình nhưng tác giả Y Phương đã đưa chúng từ chỗ là một đứa trẻ nằm trong nôi chưa hiểu sự đời tới chỗ hiểu biết những điều hay lẽ phải trong cuộc sống, từ chỗ ngu ngơ mới tập đi tới chỗ có ý chí kiên cường hiên ngang vượt qua sóng gió, biết phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình để làm người.
Cảm nhận tình cảm cha con trong bài Nói với con – Mẫu 1
Tình cảm gia đình luôn được coi là một trong những nguồn cảm hứng mãnh liệt dạt dào nhất cho thơ ca. Trong đó những bài thơ ca ngợi về tình mẫu tử thiêng liêng, phụ tử quý báu. Tìm bài thơ tình mẫu tử không khó nhưng để nói hay nói đúng về tình phụ tử thì có lẽ chỉ có bài thơ “Nói với con” của tác giả Y Phương là thể hiện vô cùng trọn vẹn. Tác giả đã khéo léo đan cài tình cảm gia đình vào trong tình yêu nước yêu dân tộc để dạy dỗ con nên người.
Tình cảm gia đình luôn là thứ sức mạnh lớn lao nhất mà mỗi con người có được. Nó vừa là động lực vừa là thứ vũ khí sắc bén nhất để đưa chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Cảm nhận đầu tiên về bài thơ này đó chính là hình ảnh đứa con lớn lên trong tình yêu thương sự đùm bọc chở che và chờ mong của cha mẹ.
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Ít nhiều những hình ảnh này đã gợi nên trong tâm trí chúng ta cả một trời kí ức mộng mơ. Đó là hình ảnh đứa trẻ bi bô tập nói và lững chững bước những bước đầu tiên trong cuộc đời trong sự chờ mong khắc khoải của cha mẹ. Có ai đó đã từng nói rằng gia đình chính là chiếc nôi êm ái và quý giá nhất để nâng bước con vào đời. Thế nhưng không chỉ có gia đình mới là chiếc nôi nuôi nấng con mà nó còn được gắn chặt với tình cảm của quê hương trong cuộc sống khốn khó mà ân tình của người dân lao động:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
………..tấm lòng
Ở đây ta thấy có sự xuất hiện của cụm từ Người đồng mình. Vậy thì người đồng mình là ai? Đó là một cách nói mang đậm nét đặc trưng địa phương của đồng bào miền núi. Ý chỉ những người đồng bào cùng chung một xuất xứ, một quê hương bản quán và một dân tộc. Tác giả đã vận dụng vô cùng khéo léo cách nói của người dân tộc miền núi vào ý thơ. Hầu hết những suy nghĩ đều được miêu tả chân thực qua từng câu chữ. Đan lờ bắt cá, bàn tay khéo léo của người dân lao động đã tạo nên những nan hoa. Vách nhà tạo nên từ những câu hát,…. Rừng ở đây không chỉ cho gỗ quý cho lâm sản quý hiếm mà còn cho cả những bông hoa khoe sắc đẹp cho đời. Sự lao động miệt mài đó đã mang đến cho con người biết bao nhiêu điều tốt đẹp. Con đường không chỉ là nơi in dấu những bước chân xuôi ngược là nơi đi lại mà nó chính là hành trình nuôi nấng con khôn lớn.
Đến đây nhà thơ đã chuyển mạch thơ sang suy ngẫm về cội nguồn về hạnh phúc quê hương bản xứ:
Cha mẹ…
… trên đời
Không chỉ cho con biết về cội nguồn của sinh dưỡng mà ở đây người cha còn muốn răn dạy con cả về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” đồng thời còn gửi gắm cả những ước mơ vĩ đại vào thế hệ con mai sau. Đó chính là tình yêu lao động hăng say là sức sống bền bỉ vượt lên mọi hoàn cảnh thử thách mọi khó khăn gian khổ:
Người đồng mình thương lắm con ơi
…
Không lo cực nhọc
Ở đây mạch thơ trở nên dồn dập nhanh hơn như một bài ca để răn dạy con những điều quý giá về cách sống và cách làm người. Đầu tiên đó chính là bài học về sự đoàn kết tinh thần tương thân tương ái mãnh liệt. Sự yêu thương đùm bọc chính là sức mạnh để giúp người đồng mình vượt qua biết bao nhiêu gian nan thử thách trong cuộc đời. những câu thơ đối xứng nhau như “cao đo nỗi buồn/ xa nuôi chí lớn” thể hiện thật dứt khoát thật mạnh mẽ những ý chí sắt đá của dân tộc mình.
Cuộc sống có thể vất vả có thể nghèo đói tuy nhiên con người luôn luôn tự hào và gắn bó với mảnh đất quê hương của mình. Và cuối cùng người cha muốn gửi gắm đến người con của mình dù có ở bất cứ đâu, làm bất cứ điều gì thì phải luôn biết nhớ về quê hương. Biết vượt qua mọi cam go thử thách trong cuộc sống bằng ý chí và niềm tin mãnh liệt. Không được chê bai và phản bội quê hương. Đoạn thơ lặp đi lặp lại bởi tiết tấu nhanh mạnh, dứt khoát, cứng rắn và dồn dập bởi những điệp từ, điệp ngữ và cấu trúc linh hoạt lay động trái tim của bất cứ ai nghe.
Có thể nói bài thơ “Nói với con” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất nói về tình phụ tử thiêng liêng mà cao quý trên đời. Nó như một chất men ủ càng lâu càng ngọt, càng lâu càng thấm. Tình cảm gia đình chính là thứ tình cảm vô cùng cao quý và thiêng liêng song hành cùng với tình yêu của đất nước, của quê hương. Nó chính là thứ động lực mãnh liệt để vun đắp và nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người.
Cảm nhận tình cảm cha con trong bài Nói với con – Mẫu 2
Có lẽ các bạn cũng đã biết xưa nay tình mẫu tử luôn là đề tài phong phú cho thơ ca. Những bài thơ nói về tình cảm cha con thì rất là ít. Riêng bài thơ “Nói với con” của tác giả Y Phương là một trong những tác phẩm rất hiếm hoi đó. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm êm ấm của gia đình, tình yêu quê hương da diết, ngọt ngào và ngợi ca giá trị truyền thống tình nghĩa, sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi.
Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết là cái nôi gia đình con lớn lên trong mái ấm có cha có mẹ trong vòng tay yêu thương. Cha mẹ thấy hạnh phúc sung sướng, từ bước chập chững từ tiếng nói tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói mộc mạc, nghệ thuật liệt kê điệp ngữ, gợi ra không khí gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”
Hơn thế, cái nôi nhỏ bé ấy, còn được đùm bọc bởi cái nôi rộng lớn đó là quê hương. Con lớn lên trưởng thành trong cuộc sống lao động trong thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình quê hương. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sáng tạo những hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Người đồng mình, vùng núi, dân tộc mình yêu lắm con ơi. Đan lờ, ken vách cần cù lao động, cần cù lao động đùm bọc sẻ chia gắn bó với nhau.
“Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng”
Thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng trở qua nghệ thuật nhân hóa. Điều đó khẳng định một quê hương nghĩa tình. Người cha muốn nói với con vẻ đẹp ấy của người đồng mình mà để yêu, gắn bó. Do đó, khi sung sướng ôm con thơ vào lòng nhìn con khôn lớn, suy nghĩ về nghĩa tình làng bận quê nhà người cha nghĩ về kỉ niệm hạnh phúc.
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước ở bên con. Vẫn cách diễn đạt mộc mạc độc đáo. Nhà thơ tiếp tục thể hiện, nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc.
“Người đồng mình…
…
không lo cực nhọc”
Điệp ngữ “người đồng mình” lặp lại ba lần, đó là cảm xúc trào dâng trong tâm trạng nhà thơ. Biết bao nỗi niềm thiêng liêng da diết với quê hương với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi “Yêu lắm, thương lắm, con ơi”. Đứng trước hoàn cảnh quê hương đất nước lúc bấy giờ điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất là cách tin vào sức mạnh truyền thống dân tộc lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay quê hương, người đồng mình còn nghèo gian nan vất vả.” Sống trên đá, trong thung lên thác, xuống ghềnh” thì cũng đừng “chê đá gập ghềnh, chê thung nghèo đói”. Lạc quan ” như sông, như suối”. Trong ý thơ có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao xa của trời đất để đo tầm kích của nỗi buồn và ý chí người đồng mình, tác giả muốn nhắn nhủ khuyên răn truyền cho con cách nhìn và nghị lực, nỗi buồn dẫu cao to như núi thì ý chí tâm hồn con người, sẽ càng xa càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết chân trọng yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên. Dù gian nan đến đến đâu cũng đừng chê đừng bỏ, đừng làm việc trái lòng mình. Phải biết cần cù lạc quan để vượt qua để sống cho xứng đáng.
Người đồng mình tuy mộc mạc thô sơ nhưng giàu bản lĩnh và lòng tự trọng
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục”
Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa, nhà thơ nhắc lại hai lần người đồng mình thô sơ da thịt, mộc mạc. Về lời ăn tiếng nói nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé về ý chí nghị lực lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, khoáng đạt giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Câu thơ độc đáo mang cách nói đặc trưng sâu sắc của người miền núi.
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”
Đục đá kê cao là hành động thực người miền núi thường đục quá kê cao nhà kê nối đi, từ hình ảnh đó lời thơ chuyển nghĩa khái quát ” kê cao quê hương” đó là ý thức bảo vệ và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ giàu đẹp hơn là tôn vinh giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.
Những câu cuối, nhà thơ khẳng định muốn truyền cho con sức mạnh vào truyền thống quê hương, người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp, mong con sau này lớn khôn trưởng thành trên cuộc đời phải sống cao thượng để xứng đáng truyền thống tốt đẹp đó. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn chỉnh phù hợp mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt nhịp điệu bay bổng nhẹ nhàng.
Qua những lời tâm sự của cha đối với con. Ta thấy tình cảm cha con thật thân thích, trìu mến, người cha luôn muốn truyền dạy cho con những điều tốt đẹp nhất. Chính vì vậy, mỗi người con như chúng ta hãy trân trọng cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.
Cảm nhận tình cảm cha con trong bài Nói với con – Mẫu 3
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”.
Ai cũng có một quê hương, nơi đầu tiên đón nhận tiếng khóc của ta và chào đón ta vừa lúc lọt lòng. Nghĩ về quê hương, trong mỗi người lại gợi lên một hình ảnh riêng nhất, đẹp nhất xen lẫn một niềm xúc cảm chân thành lẫn tự hào. Bởi thế, dù đã có rất nhiều người nói về quê hương mình, làm thơ về quê hương nhưng quê hương trong Nói với con của Y Phương vẫn mang lại cho ta niềm xúc động sâu lắng.
Có lẽ, ai cũng thế, những gì người ta thường gợi để nhớ về quê hương là những gì chân chất, mộc mạc, giản dị nhất. Nếu Đỗ Trung Quân gắn quê hương với hình ảnh “chùm khế ngọt”, “đường đi học”, là “con diều biếc”… thì Y Phương đã chỉ cho con:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Đó là một vùng quê núi rừng còn chưa phát triển, nhưng con người thì vô cùng đáng quý, miền đất giàu truyền thống văn hoá và nhất là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn, tấm lòng chất phác thiện lương. Những người đồng mình thương lắm nhưng cũng lớn lao đầy khí phách trong cả nỗi buồn và chí hướng (Cao đo nỗi buồn; Xa nuôi chí lớn). Quê hương trong Nói với con có gì riêng nhưng cũng có cái gì đó rất chung.
Nhưng có lẽ, điều in sâu đậm nhất trong lòng mỗi đứa con (và người đọc chúng ta) là những lời dặn dò, khuyên bảo của người cha. Đứa con trước cha, trước quê hương luôn mãi là một hình ảnh yêu thương, bé bỏng nhất và lúc nào cũng cần được chở che, dạy dỗ. Bài học của cha luôn là động lực giúp con khôn lớn, cứng cỏi trước cuộc sống.
Dấu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai bé nhỏ đâu con”.
Chính giọng điệu của đoạn thơ đã gieo vào lòng người cảm xúc về những lời căn dặn đầy thân thương, chân thành, tha thiết. Dù hoàn cảnh sống có thế nào thì con người luôn phải vượt lên hoàn cảnh để mà sống. “Nỗi buồn” sẽ làm cho con người ta biết sống chịu đựng, ý chí sẽ rèn luyện cho con người ta luôn nỗ lực vươn tới, đi lên. “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn” là những câu thơ có ý nghĩa như một lời động viên, là động lực mà người cha muốn truyền cho con, giúp con luôn vững bước, đi xa hơn với những quyết định trong cuộc sống của mình và luôn giữ bên mình niềm tin vào cuộc sống, sống ở đời sẽ không tránh được nỗi buồn, người biết sống cũng phải là người luôn “nuôi chí lớn” để làm cho cuộc đời, cuộc sống một điều gì có ý nghĩa. Đó cũng là kì vọng về tầm kích của con trong bước đường đời gian nan.
Cảm nhận tình cảm cha con trong bài Nói với con – Mẫu 4
Tình cha ấm áp như vầng thái dương
Ngọt ngào như dòng nước tuôn đầu nguồn
Suốt đời vì con gian lao
Ân tình đậm sâu bao nhiêu
Cha hỡi, cha già dấu yêu…
(Tình cha)
Một trong những tình cảm sâu nặng nhất trong trái tim con người đó là tình cảm gia đình, tình cảm cha con, tình cảm mẫu tử. Vì thế, đây cũng là một trong các đề tài văn học, khơi nguồn cảm hứng bất tận nhiều nhất cho những người nghệ sĩ để viết lên những áng thơ hay ca ngợi công ơn của bậc sinh thành dành cho con cái. Y Phương – một người dân tộc Tày với bài thơ “Nói với con” (1980) mượn lời tâm tình trò chuyện của người cha dặn dò con đã thể hiện thật thấm thía, cảm động về tình yêu thương con: vỗ về, bao bọc chở che con của người cha, mong muốn con khôn lớn thành người. Mạch xúc cảm bao trùm bài thơ là tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng, đi từ tình cảm gia đình, mở rộng ra tình cảm quê hương, từ kỉ niệm ngọt ngào nâng lên thành lẽ sống.
Trước hết, mở đầu bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: con lớn lên bởi tình yêu của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người cha nói về tình cảm gia đình – cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng người con khôn lớn trưởng thành:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình “chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười”, nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ. Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.
Bên cạnh tình cảm gia đình, người cha muốn nói cho con biết về cội nguồn sinh dưỡng rộng lớn hơn đó là tình làng,quê hương nghĩa xóm:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi và lối diễn đạt mộc mạc, nhà thơ Y Phương đã miêu tả thật chân thực, sinh động cuộc sống lao động thật nghĩa tình và thơ mộng ( nên sửa thành “cuộc sống lao động nhộn nhịp, tươi vui”) của “người đồng mình”. “Người đồng mình” là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi “con ơi” kết hợp với từ tình thái “yêu lắm” ( “yêu lắm” là cụm tính từ) làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của “người đồng mình” được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: “đan lờ” – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành “cài nan hoa”; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những “câu hát” – chiều văn hóa, lối sống của “người đồng mình”. Những động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi.
Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới “rừng núi” và những “con đường” của “người đồng mình”:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả “hoa”. “Hoa” là sản phẩm của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn “con đường” là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những “người đồng mình”. Những “con đường” ấy được tạo nên bởi những “tấm lòng” nhân hậu, bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng… Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây (bổ sung: con đường không chỉ mở ra hướng đi, tạo nên nhịp cầu nối con người với con người mà con đường còn “cho những tấm lòng” nhân hậu, bao dung) . Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống.
Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột (ôn lại kỉ niệm đẹp đẽ về tình cảm gia đình cao đẹp, thiêng liêng) chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của “ngày cưới”:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời.
Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đầu, đến khổ hai, người cha tiếp tục ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền thống của quê hương mình:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Câu thơ đầu được điệp lại “Người đồng mình thương lắm con ơi” nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là “yêu” tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: “thương”. “Thương” là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói ghém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, “người đồng mình” – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn.
Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của “người đồng mình”. Nghệ thuật đối lập tương phản: ” cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, tác giả đã diễn tả những trạng thái khác nhau của “người đồng mình”. “Nỗi buồn – chí lớn” là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. “Người đồng mình” buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng “Người đồng mình” không bao giờ nhụt chí mà mạnh mẽ, vững vàng đối diện với những khó khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn minh. Câu thơ giản dị , mộc mạc nhưng đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao.
Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với những phẩm chất quí báu mà người cha muốn truyền cho con:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” “lên thác xuống ghềnh” có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ “sống … không chê” (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh “như sông như suối” có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về “người đồng mình” với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp nhận và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin tất thắng.
Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con vẫn được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh “thô sơ da thịt” diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của “người đồng mình”. Nhưng họ không hề “nhỏ bé” về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, “người đồng mình” phải lao động:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ “tự đục đá” thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh “kê cao quê hương” còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của “người đồng mình”. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò người con phải tự hào về truyền thống quê hương, lấy những tình cảm ấy làm hành trang bước vào đời:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Hình ảnh “thô sơ da thịt” được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về quê hương, sống xứng đáng với “người đồng mình”, không cúi đầu trước giông tố khó khăn, vất vả ở phía trước. Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quí báu của “người đồng mình”. Hai tiếng “nghe con” ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.
Tóm lại, bằng bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, bằng những hình ảnh cụ thể mà vẫn giàu chất thơ, “Nói với con” đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Điều lớn lao nhất mà người cha truyền đến được cho con chính là lòng tự hào về quê hương và niềm tự tin khi bước chân vào đời. Khi biết tự hào một cách chính đáng thì sẽ có lòng tự tin vững chắc.
Cảm nhận tình cảm cha con trong bài Nói với con – Mẫu 5
Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.
Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.
Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáo đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.
Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những “người đồng mình”, rất cần cù và tươi vui:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.
Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: Cài nan hoa, ken câu hát,… đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác… đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: “Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng”. Cách gọi “người đồng mình” đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.
Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.
Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như “cao”, “xa”, “lớn”, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những “người đồng mình”. Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục”
Những “người đồng mình” vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những “người đồng mình” mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin…Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.
Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho con. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.
Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.
Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm của cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ … Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn – nguyện “sống như sông như suối”, nguyện ngẩng cao đầu “lên đường” mà không “thô sơ da thịt”. Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh “tự đục đá kê cao quê hương” thân thiết của mình.
Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.
Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha – bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.
Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong Nói với con
Trong nền Văn học Việt Nam từ xưa đến nay, tình cảm gia đình luôn là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất. Nếu như tình mẹ dành cho con là đức hy sinh, là sự yêu thương không cần báo đáp và là cả tấm lòng bao dung trời biển, thì tình cha dành cho con chính là sự ấm áp, là những mạnh mẽ cha dạy con vững bước trên đường đời như núi cao, sông dài. Mẹ cho con sự mềm mỏng, cha cho con sự vững vàng. Đó cũng chính là tâm tư tình cảm mà tác giả Y Phương đã gửi gắm trong bài thơ “Nói với con”.
Y Phương là nhà thơ dân tộc được sinh ra ở vùng đất Cao Bằng – nơi nổi tiếng có truyền thống Cách mạng mạnh mẽ và luôn được “giữ lửa” trong lòng mỗi người dân ở đây.
Nói với con chính là bài thơ mang nhiều tâm tư tình cảm nhất của tác giả Y Phương. Bởi những gì mà ông muốn truyền tải trong bài thơ không chỉ là tình cảm thiêng liêng của người cha dành cho con, người cha muốn con luôn ghi nhớ công ơn cha mẹ, những người đã sinh dưỡng ra mình khi còn nhỏ. Đến khi trưởng thành, người cha muốn con còn phải biết ơn và nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước.
Người cha trong bài thơ muốn con mình biết rằng, cha mẹ là nguồn cội, đất nước là mầm sống, không thể tách rời.
Mở đầu bài thơ ta có thể thấy được Y Phương đã dùng những lời thơ chân thật và tha thiết nhất. Từng câu thơ bình dị nhưng thẳng thắn, chân thành, như chính “cái bụng” của những người dân tộc nơi đây:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Tác giả đã vẽ ra một bức tranh gia đình bình dị nhưng thật hạnh phúc với hình ảnh trọn vẹn cha, mẹ và con. Đó chính là niềm vui vô giá khi con hiện diện trên cuộc đời này, sung sướng như vỡ òa khi được nhìn thấy con chập chững “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ”. Là khi con khôn lớn lên từng ngày, biết nói biết, biết cười, biết yêu thương cha mẹ, biết nhìn thấy cuộc đời tươi đẹp.
Đồng thời, Y Phương đã khéo léo dùng những từ chỉ số đếm “Một, hai” cho thấy được tình yêu thương vô bờ bến của cha mẹ dành cho con. Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ nâng niu, đếm từng nhịp. Đó cũng chính là tình thân gia đình ruột thịt, thiêng liêng, không gì sánh bằng của cha mẹ.
Đó không chỉ là cảm nhận riêng của tác giả Y Phương, mà nó còn là đề tài muôn thuở luôn được các nhà thơ nhà văn luôn đặc biệt đề cao và tôn vinh trong nền Văn học Việt Nam xưa nay với nhiều câu thơ bất hủ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
(Khuyết danh Việt Nam)
Hoặc trong ca dao tục ngữ Việt Nam:
Con mất cha như nhà mất nóc
Con mất mẹ liếm lá đầu đường.
Hay
Mẹ dạy con thì khéo, Bố dạy thì con khôn.
Thế mới thấy được tình cảm của cha mẹ dành con chính là thứ tình cảm to lớn và bao la nhất. Không ai sẵn sàng lấy thân “đội cả bầu trời nắng” chỉ để tìm chỗ mát cho con như cha, cũng không ai tự nguyện hy sinh cả cuộc đời, bất chấp cả tính mạng vì con như mẹ.
Cũng vì vậy mà khi đọc tác phẩm “Nói với con” ta có thể cảm nhận được tác giả dường như đã đặt cả tâm tư, tình cảm chân thật nhất của mình từng câu từng chữ trong bài thơ này.
Người cha dạy con không chỉ biết yêu gia đình, mà còn phải biết yêu quê hương, Tổ quốc
Bên cạnh tình cảm gia đình, tác giả còn muốn con của mình khi trưởng thành còn phải có một tấm lòng rộng mở hơn đó là tình yêu quê hương, đất nước, nơi đã giúp con tồn tại và phát triển:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Trong những câu thơ còn lại của bài thơ, tác giả đã liệt kê ra những gì tốt đẹp nhất mà xóm giềng trong bản làng dành cho con. Nếu như người cha muốn con yêu quê hương, đồng bào mình, thì chính ông phải là người có tình yêu da diết trước.
Bởi thế, nên tác giả đã đã cảm thán rằng “Người đồng mình yêu lắm con ơi”. Ba từ “Người đồng mình” nghe sao mà thân thương quá, gắn bó quá. Y Phương sử dụng từ “Người đồng mình” chính là rút gọn của ý nghĩa những người ở vùng mình, miền mình, những người đang sống chung quê hương với mình hoặc những người đang cùng chảy chung dòng máu Lạc Hồng của dân tộc Việt Nam mến yêu.
Hai từ “yêu lắm” nghe như khắc cốt ghi tâm, có thể thấy tình đồng bào, tình dân tộc, tình làng nghĩa xóm gắn kết của những người dân vùng đất Cao Bằng như đã ăn sâu vào máu, là lẽ sống thiêng liêng của mỗi người. Họ đã biến tình yêu ấy trở thành phong tục tập quán, cần được lưu giữ, kế thừa và phát huy qua mỗi thế hệ.
Thế nên, người cha cũng muốn truyền cho con tình yêu ấy, người cha muốn con yêu nhân dân vùng mình, dân tộc mình, đất nước mình như người cha đã từng yêu.
Cũng vì lẽ đó, mà tác giả đã dùng những câu thơ vui tươi để miêu tả những gì đẹp nhất, gần gũi nhất với con, để con biết yêu từ những điều bé nhỏ nhất, chi tiết nhất như “chiếc lờ, vách nhà, rừng, những con đường”, đến những điều lớn lao như bình yên, niềm vui của đất nước.
Y Phương đã tinh tế dùng những hình ảnh hết sức sinh động và giàu sức gợi hình mạnh mẽ. Đồng thời, ông cũng muốn cho con thấy được rằng, đất nước hòa bình, yên ấm, thì người dân mới có thể yên tâm sống vui vẻ và giữ mãi được khung cảnh lao động hăng say, tươi vui hằng ngày mà con vẫn thấy như “đan lờ”- chính là dụng cụ bắt cá của những người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo chúng đã biến thành “cài nan hoa”.
Người dân không chỉ cùng chung tay tạo dựng nên những tấm vách gỗ để xây nhà, mà nó còn được xen kẽ bởi những “câu hát” rộn ràng, đoàn kết của họ. “Những con đường” không tiếc thân mình bị mài mòn cho người dân đi hái bắp, lao động hằng ngày, giúp cho người dân khắp nơi được gặp nhau, tụ họp lại với nhau, chúng đã góp phần gắn kết thêm “cho những tấm lòng”.
Thêm vào đó, những cánh rừng bạt ngàn ở vùng núi Cao Bằng cũng giúp tô điểm thêm cho vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng nơi đây bằng những bông hoa lung linh, đua nhau khoe sắc trong nắng, trong sương, cho mọi người thêm yêu nét đẹp đặc trưng ở quê hương mình.
Tác giả Y Phương đã sáng tác những lời thơ trong sáng, bình dị và gần gũi nhất để răn dạy con của mình về cách sống, cách làm người tốt. Bên cạnh đó, ông đã khéo léo dùng những từ ngữ miêu tả, ngợi ca vẻ đẹp của quê hương để dạy con biết cách “yêu” gia đình, yêu cha mẹ- những người đã sinh dưỡng và nuôi nấng con trưởng thành.
Đồng thời cũng để lột tả niềm tự hào của tác giả với vẻ đẹp của vùng núi Cao Bằng dưới con mắt của một nhà thơ nói chung, và dưới con mắt của người dân nơi đây nói riêng để dạy con cách yêu quê hương, đất nước- nơi đã cho con sự ấm êm, đã cho con những điều tốt đẹp nhất, giúp con biết kế thừa, và phát huy tình đoàn kết giữa đồng bào, dân tộc, biết trân quý và ra sức giữ gìn sự bình yên của đất nước.
Xét về giá trị nghệ thuật của tác phẩm “Nói với con”, ta nhận thấy rằng, tác giả Y Phương không sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, ẩn chứa hàm ý sâu xa để người đọc phải suy ngẫm, mà ông đã dùng bút pháp miêu tả đặc trưng với những từ ngữ đơn giản và dễ hiểu nhất, nhưng chúng lại có sức gợi hình gợi cảm đến lạ.
Bài thơ “Nói với con” đến nay vẫn được xem là một trong những tác phẩm gần gũi và hay nhất của nhà thơ Y Phương. Bởi chính những tình cảm chân thật nhất cũng như bút pháp tinh tế, khéo léo mà ông đã sử dụng để truyền tải tâm tư tình cảm của mình vào trong đó. Bài thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận tình yêu trời biển của cha mẹ dành cho con, sự dạy bảo và niềm hy vọng to lớn mà cha muốn “nói” với con, mà còn giúp cho người đọc cảm nhận được nhịp sống rộn ràng, sự cần cù, hăng say trong lao động của người dân nơi vùng núi Cao Bằng xa xôi.
Phân tích tình cha con trong bài Nói với con
Tình cảm gia đình vốn là một đề tài xuyên suốt trong nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Trong tư tưởng Nho giáo, người đàn ông được đề cao và được xem là nhân tố cấu thành và chi phối các mối quan hệ xã hội. Thế nhưng, với nền văn hóa trọng mẫu, những tác phẩm viết về tình mẹ vẫn chiếm ưu thế hơn. Hiếm hoi mới có tác phẩm hay viết về tình cha.Với truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao đã tạc vào nền văn học bức tượng đài tình cha con vĩ đại trong hoàn cảnh đói khổ cùng cực.
Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng đã phát hiện ra vẻ đẹp tình cha con thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Còn Y Phương, qua bài thơ Nói với con đã đem đến cho ta vẻ đẹp tình cha con thắm thiết trong lời dặn chân thành, mộc mạc mang đậm chất Tày.
Y Phương viết bài thơ Nói với con năm 1980, khi đất nước đã giải phóng. Đó là thời điểm đất nước gặp vô vàn khó khăn do cuộc chiến tranh kéo dài để lại. Nền kinh tế bị phá hoại nặng nề, sản xuất yếu kém, trì trệ, con người khi bước ra khỏi cuộc chiến có nhiều thay đổi, khó giữ được mình trước sự cám dỗ của đời sống vật chất. Hiện tượng trộm cướp nảy sinh. Con người trong cuộc giành giật sự sống trở nên lừa dối, tham nhũng, tha hóa đạo đức, đánh mất nhân cách, rời bỏ nguồn cội, phủ nhận quá khứ.
Là người lính kiên trung, trước thực trạng ấy, Y Phương vô cùng đau lòng, mất niềm tin và định hướng trước cuộc sống. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc mà bất chấp đạo lí, quên đi các giá trị mà ta mới giành lại được. Muốn sống đàng hoàng, tử tế như một con người đích thực, gắn mình với dân tộc, với nguồn cội, ông nghĩ phải bám chắc vào văn hóa và tin vào những giá trị vững bền vĩnh cửu của văn hóa dân tộc.
Và người thực hiện mong ước ấy chính là các thế hệ mai sau. Tâm tình ấy ông gửi gắm vào lời nói với con trẻ, dặn dò thiết tha đứa con của mình. Qua lời dặn ấy, ông muốn nói lên rằng chúng ta phải vượt qua sự đói khổ ngặt nghèo bằng sức mạnh của văn hóa với niềm tin tưởng lớn lao, dù có thế nào đi nữa.
Bởi thế, mở đầu bài thơ là tiếng reo vui biết bao trìu mến khi đứa con chập chững những bước đi đầu đời:
“Chân phải bước tới cha
Chân tái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”.
Bằng những hình ảnh bình dị, cụ thể, giàu chất thơ, kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt rắn rỏi của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình hạnh phúc, đầy ắp tiếng cười tiếng nói. Bước chân đầu đời con bước tới cha là bước đến tinh thần, lý tưởng cao đẹp. Bước thứ hai con bước đến mẹ là bước vào tình yêu thương và sự chở che vững chắc. Gia đình là nguồn sinh dưỡng đầu tiên, là điểm tựa nâng bước chân con vào đời. Lời thơ như chảy ra từ tâm hồn vô vàn yêu mến và tự nhiên vô cùng.
Nhịp thơ chậm rãi hiện rõ từng bước đi ngập ngừng có chút e sợ của người con càng làm cho ta thêm quý trọng những phút giây đầu đời. Hình ảnh thơ không chút cầu kì, cứ tự nhiên như lời nói nhưng đó là lời nhắc nhở thiêng là, là niềm mong muốn của cha.
Mai này con có bước đi chân đi xa hơn nữa thì phải nhớ đến gia đình, nhớ đến cha mẹ, nhớ đến cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên đã cho con sức mạnh. Con có vững bước ở tương lai là bởi hôm nay có cha có mẹ dìu dắt con bước tới. Sự khám phá đầu tiên trong cuộc đời có sự nâng đỡ của gia đình. Tình phụ tử thiêng liêng, thầm kín là mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt được hình thành và phát triển trong phút giây hạnh phúc bình dị đáng nhớ ấy. Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến niềm rung cảm sâu xa nhất trong trái tim con người, tạo nên sự đồng cảm có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Người cha cũng không quên nhắc nhở con yêu về tình nghĩa quê hương nguồn cội, về con người và núi rừng Tây Bắc, nơi chôn nhau cắt rốn bao đời trong niềm tự hào lớn lao:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Từ trong gia đình, nhà thơ mở ra không gian rộng lớn để con hiểu biết, trân trọng và gìn giữ. Tuy có chút vội vàng nhưng đó lại là tin thiết tha mà người cha muốn con thấu hiểu. Cội nguồn sinh dưỡng đích thực của đời người chính là quê hương, nguồn cội, là đất, là rừng, là con đường thắm đượm nghĩa tình dẫn bước ta đi. Đất và người nuôi ta khôn lớn, cho ta sức mạnh, tình yêu và sự sống; hình thành cho ta nền văn hóa, tư tưởng và khát vọng chinh phục. Người đồng mình luôn lấy cái tươi đẹp làm nguồn sống của mình, lấy tình yêu thương làm cái để cho tặng.
Đối với người cha, đất và người là cội nguồn của mọi sự sống, mọi tinh thần. Bởi thế, ba tiếng “người đồng mình” vang lên nghe tha thiết vô cùng. Nó chứa đựng cái tình, cái nghĩa thắm ngọt của quê hương, bản làng. Người cha mong muốn con phải biết “người đồng mình” đã sống như thế ấy, mạnh mẽ và thủy chung, bình dị mà tươi đẹp, trong sạch, vững bền. Họ biết trân trọng cái đẹp và không ngừng làm đẹp cho cuộc đời mình dù hết sức nhỏ bé. Và con hãy ghi nhớ điều đó trước khi đời sống vật chất chưa kịp chạm đến tâm hồn và thổi bùng những tham vọng trong con, như cha mẹ nhớ về khoảnh khắc thiêng liêng này:
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.
Không chút triết lí cho một lời gửi gắm hết sức đơn giản nhưng rất quan trọng đối với mỗi đời người. Điều mà người cha muốn nói là con phải biết trân trọng cuộc đời, trân trọng quê hương với những gì bình dị, thiêng liêng nhất. Đó là nguồn sống, là sức mạnh bất diệt dẫn bước con vượt qua thử thách hướng đến tương lai. Không những thế, người cha còn nhắc nhở về ý chí và khát vọng hướng về quê hương, cội nguồn và biết tự hào về nơi con đã sinh thành:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha cũng muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không che thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Trước hết là nhắc nhở về tinh thần: “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. Cách so sánh mộc mạc, bình dị như cuộc sống và tâm hồn của người miền sơn cước. Họ không hề tô vẽ hay ẩn ý xa xôi. Qua cách nói có chút cường điệu, người cha muốn con phải biết yêu thương và tự hào về quê hương dù nó không to nhất, không đẹp nhất.
Nhưng quê hương lúc nào cũng chân thật, tự nhiên, không tham lam, không giả dối. Họ muôn đời lam lũ trong đói nghèo, kham khổ đi lên nhưng lúc nào cũng mạnh mẽ, không bao giờ kiêu ngạo hay bị khuất phục. Đó là những đức tính quý báu của người đồng mình, người cha mong con ghi lấy, nhớ lấy, tìm thấy và gìn giữ mãi mãi trong phong ba bão tố đường đời.
Câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn” nghe có chút ngậm ngùi nhưng lại chuyển tải hết niềm mong mỏi của cha. Con sẽ thế nào, tất cả do con quyết định. Bởi người cha biết rằng, trong cuộc sống mới, khi mà đời sống vật chất được đề cao hơn bao giờ hết, thì việc giữ gìn và phát triển đạo lí, tình người là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Câu thơ đọc lên thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt như tấm lòng của người cha, dù có tin tưởng nhưng chưa thể hoàn toàn khẳng định được điều thiêng liêng ấy.
Niềm tự hào về quê hương và con người một lần nữa lại dâng trào trong lời dặn đinh ninh như sắt đá:
“Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Có thể nói, hình ảnh đất và người trong hiện tại và tương lai chính là điểm tựa của tác giả khi ông triển khai mạch thơ. Một lần nữa hình ảnh “người đồng mình” lại xuất hiện trong tư thế cao vời, lẫm liệt ngang tầm vũ trụ. Tuy thô sơ da thịt, nhưng họ từ bao đời luôn có ý thức tự lập, tự cường, tự tôn bản sắc riêng biệt của mình, chẳng bao giờ nhỏ bé.
Sự đối lập giữa cái thô sơ bên ngoài và cái cao quý ẩn chứa bên trong; giữa hình thức và tinh thần càng làm cho con người trở nên cao đẹp lạ thường. Sức sống mãnh liệt của họ luôn được khẳng định với một niềm tin vững chắc. Họ kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn giữ đến suốt cuộc đời.
Con sẽ bước tiếp trên con đường dân tộc đã đi qua, có máu và nước mắt của bao con người. Một lối mòn nhỏ nhưng dẫn đến một chân trời mới. Truyền thống quê hương sẽ là nguồn sức mạnh để con nhận ra mình, khẳng định mình. Quê hương sẽ đồng hành cùng con để con sẽ không cô đơn mỗi khi con gặp khó khăn thử thách:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
Khép lại bài thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ vừa nghiêm khắc vừa trìu mến bao dung. Hai tiếng “nghe con” đặt vào lòng con cả tình cha, tình mẹ và sự hoài mong của quê hương xứ sở. Mở ra một chân trời mới, quê hương nhỏ sẽ theo con đến với cuộc đời lớn, đó là điều mà người cha vừa lo lắng vừa tin tưởng trong niềm hân hoan tha thiết.
Nhỏ nhẹ như lời tâm tình thủ thỉ, bài thơ thể hiện vẻ đẹp tình cha con thắm thiết. Qua lời tâm sự, dặn dò con trẻ lúc ban sơ, người cha thể hiện niềm tự hào lớn lao về nguồn cội quê hương và mong muốn con sau này phải trân trọng, gìn giữ lấy những giá trị cao đẹp mà người đồng mình đã muôn đời gìn giữ.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về tình cha con trong bài Nói với con của Y Phương 2 Dàn ý & 7 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.