Bạn đang xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ 4 bài thơ Bếp lửa 2 Dàn ý & 6 mẫu phân tích khổ thơ thứ 4 Bếp lửa tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Khổ 4 bài thơ Bếp lửa đã kể về kí ức những năm tháng sống trong chiến tranh của hai bà cháu vô cùng chân thực, xúc động. Với 6 bài Phân tích khổ 4 Bếp lửa ngắn gọn, sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về tình bà cháu thiêng liêng.
Chỉ với 7 câu thơ ngắn ngủi, Bằng Việt đã cho chúng ta thấy được một góc nhìn khác của cuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc ta. Qua đó, càng giúp chúng ta biết trân quý tình cảm gia đình thiêng liêng, cao cả. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Dàn ý phân tích khổ 4 bài thơ Bếp lửa
Dàn ý 1
1. Mở bài
- Giới thiệu về nhà thơ bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
- Giới thiệu khái quát về nội dung của khổ thơ thứ 4.
2. Thân bài
– Kí ức về bà và những ngày gian khó của hai bà cháu:
- Sự tàn phá dữ dội của giặc Mĩ làm cho ngôi nhà của hai bà cháu “cháy tàn cháy rụi”.
- Thành ngữ dân gian “Cháy tàn cháy rụi” gợi ra cái khốc liệt của chiến tranh và cảnh hoang tàn của ngôi nhà, của làng quê tác giả.
- Đối lập với sự hủy diệt của kẻ thù là tình cảm yêu thương, đoàn kết của người dân xóm làng.
- Trải qua bao gian khó bà vẫn kiên cường “vững lòng” để làm chỗ dựa cho con, cho cháu.
- Bà mạnh mẽ gánh vác mọi thứ.
- Bà dặn cháu không kể về ngôi nhà bị tàn phá với bố để bố yên tâm công tác
=> Bà là hậu phương vững chắc cho bố mẹ nơi tiền tuyến, là chỗ dựa vững chắc của cả gia đình.
=> Tình cảm bà cháu hòa quyện với tình yêu quê hương, đất nước.
3. Kết bài
- Đánh giá chung về giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ.
Dàn ý 2
1. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ.
- Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô.
- Giới thiệu đoạn trích: khổ 4 bài thơ
2. Thân bài:
Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là (đoạn thơ 4):
- Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi”: đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu.Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt.Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.
- Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
3. Kết bài:
- Kết lại tình cảm gia đình là cơ sở vững chắc để làm nền tảng cho tình yêu quê hương đất nước
Phân tích khổ 4 bài thơ Bếp lửa
Bằng Việt là một cây bút tài năng thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông có tuổi thơ lớn lên bên người bà đáng kính ở quê thuộc huyện Thạch Thất, Hà Tây. Những năm tháng đã được tái hiện lại trong bài “Bếp lửa”. Ở khổ thơ thứ tư, ông đã ghi lại hoàn cảnh của hai bà cháu khi chiến tranh đang ở thời kì căng thẳng, khốc liệt nhất.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Trong kí ức của mình, Bằng Việt không thể nhớ rõ đó là năm nào. Thế nhưng điều in hằn trong tâm trí ông chính là hình ảnh “làng cháy tàn cháy rụi”, chỉ còn sót lại tro tàn. Tất cả vật dụng, đồ đạc, nhà cửa của người dân bị ngọn lửa thiêu rụi. Người dân trong làng tản cư trở về với vẻ mặt lầm lũi, ủ dột, buồn rầu. Từ đó, ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, nó không chỉ cướp đi sự hòa bình, hạnh phúc của người dân mà còn đem đến cho con người nhiều mất mát, đau thương. Thế nhưng, càng đau thương, con người lại càng mạnh mẽ. Họ biến nỗi đau thành động lực để cùng nhau đoàn kết, đưa đất nước thoát khỏi cảnh bom rơi, để con cháu sau này được sống trong hòa bình hạnh phúc. Người bà của tác giả cũng là một trong những người như thế:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà không cho đứa cháu báo tin nhà vì bà sợ bố ở chiến khu sẽ lo lắng mà không yên tâm công tác. Thế nên, bà đã dặn “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Hai chữ “bình yên” ấy được viết bởi bà, người phụ nữ mạnh mẽ, kiên cường, là chỗ dựa vững chắc cho cả gia đình. Cho dù có bất cứ khó khăn nào ập đến, người bà lưng còng ấy vẫn sẽ cố gắng giải quyết để con cháu an tâm. Bà chính là hiện thân của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, giàu đức hi sinh, là hậu phương để tiếp thêm sức mạnh cho tiền tuyến. Trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng đã viết:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà”
Người bà trong “Tiếng gà trưa” là đại diện cho những con người ở hậu phương, là động lực để người lính chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt cũng là hậu phương vững chắc để người ở chiến trường được yên tâm. Với việc kết hợp các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nhà thơ đã diễn tả lại những năm kháng chiến khốc liệt và hình ảnh người bà kiên cường, mạnh mẽ.
Thông qua khổ thơ, ta không những cảm nhận được không khí chiến tranh mà còn cảm thấy tự hào vì tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau trong lúc khó khăn của dân tộc ta. Chỉ với bảy câu thơ ngắn ngủi, Bằng Việt đã khái quát cho ta thấy được một góc nhìn khác trong cuộc chiến giành độc lập của dân tộc ta.
Phân tích khổ 4 của bài thơ Bếp lửa – Mẫu 1
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt bình dị với những cảm xúc tinh tế, giàu suy tư và chan chứa cảm xúc. Những kỉ niệm tuổi thơ, tình cảm gia đình, …là nguồn chất liệu hiện thực phong phú “chắp cánh” cho những sáng tạo thơ văn giàu giá trị của ông. Bếp lửa là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho tài năng, phong cách nghệ thuật của Bằng Việt. Bài thơ là tình yêu thương, kính trọng của nhà thơ dành cho người bà của mình. Trong khổ 4 của bài, Bằng Việt đã tái hiện đầy chân thực, xúc động về những kỉ niệm tuổi thơ bên bà, đó là những kỉ niệm về một thời gian khó nhưng ấm áp tình bà cháu của nhà thơ.
Tuổi thơ bên bà của tác giả là những ngày tháng bình yên trong tâm hồn nhưng cũng là những tháng ngày gian khó, vất vả nhất của hai bà cháu khi giặc Mĩ thường xuyên tàn sát, bắn phá:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”
Chiến tranh đã mang đến bao đau thương, mất mát cho con người, hai bà cháu và người dân trong làng cũng nhiều lần trở thành nạn nhân của sự tàn ác, bất nhân của kẻ thù. Giặc Mĩ đốt làng, đốt xóm “cháy tàn cháy rụi” làm cho cuộc sống vốn nghèo khó của hai bà cháu vốn khó khăn lại càng thêm phần cơ cực, gian khó “Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Thế nhưng, trong cái gian khó, u ám của hoàn cảnh thì vẻ đẹp của tình người, tình hàng xóm lại tỏa rạng ấm áp hơn bao giờ hết. Những người dân nghèo giúp đỡ, động viên lẫn nhau, giúp đỡ bà để cùng vượt qua những tháng ngày gian khó “Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”, tình cảm ấy thật đơn sơ nhưng cũng thật cao quý biết bao.
Trong không khí ác liệt của chiến tranh, hình ảnh người bà hiện lên trong dòng kí ức của người cháu thật đẹp:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Dẫu hoàn cảnh có ác liệt, dẫu cuộc sống có nhiều khó khăn, mất mát nhưng bà vẫn luôn mạnh mẽ, kiên cường để làm chỗ dựa cho người cháu, cho cả gia đình mà bà yêu quý. Bà gieo vào lòng cháu niềm tin, về sự lạc quan giữa cảnh mưa bom bão đạn, bà dặn dò cháu không kể lể với bố để bố yên tâm chiến đấu nơi tiền tuyến xa xôi. Lời dặn dò của bà giản dị nhưng chứa chan tình thương của một người bà yêu cháu, một người mẹ thương con. Bà là hậu phương vững chắc nơi quê nhà nên dù phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn đi nữa thì bà vẫn luôn “vững lòng”.
Qua khổ thơ ta không chỉ cảm nhận được sự kiên cường của bà, tình yêu thương chân thành, giản dị của bà dành cho cháu, cho con mà còn cảm nhận được những vẻ đẹp thật cao quý, bà bình tĩnh, lạc quan, bà là hậu phương vững chắc cho cả gia đình.
Khổ thơ tái hiện lại không khí dữ dội của chiến tranh, thế nhưng thứ đọng lại trong lòng độc giả không phải sự ám ảnh, kinh hoàng mà là niềm xúc động khôn nguôi về tình người nơi xóm làng, láng giềng, tình cảm gia đình thiêng liêng, cao đẹp và đọng lại sâu đậm nhất chính là tình cảm ấm áp, mềm mại về bà.
Phân tích khổ 4 của bài thơ Bếp lửa – Mẫu 2
Chiến tranh mang đến cho con người ta sự ám ảnh mỗi khi nghĩ tới. Nó khiến cho bao nhiêu gia đình phải chịu sự chia cắt, bao nhiêu gian khổ gánh nặng lên vai người đi, người ở lại. Có ai đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh mới biết trân trọng sự bình yên. Và Bằng Việt là một nhà thơ đã có một tuổi thơ như vậy, tuổi thơ sống trong chiến tranh phải sống xa bố mẹ, chiến tranh bắt người bà yêu dấu của ông phải một mình gánh vác trọng trách chăm lo cho người cháu. Cũng nhờ đó mà với ông bao nhiêu kỷ niệm gắn với tuổi thơ bên bà đã giúp ông sáng tác thành công bài thơ Bếp lửa. Bài thơ được viết trong khoảng thời gian ông xa nhà, ở một đất nước xa xôi, nơi mà người ta dễ hoài niệm và nhớ về quá khứ.
Ở bếp lửa, người đọc thấy được duy nhất bao trùm bài thơ đó là tình yêu thương, đùm bọc vô bờ bến của người bà dành cho đứa cháu của mình. Qua những năm tháng chiến tranh bố mẹ xa nhà, ông được sống với bà, được nhận những tình cảm trọn vẹn.
Bao nhiêu kỷ niệm về chiến tranh, về người bà kiên cường, vững vàng hiện về trong tâm trí ông:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
………..
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!.”
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu mênh mang. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố-Mày có viết thư chớ kể này kể nọ-Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Gian khổ thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó cũng chính là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam ta từ muôn thuở, luôn can đảm, bản lĩnh và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hy sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất nước đó ư.
Chiến tranh là một danh từ bình thường, nhưng đằng sau nó lại là một khung cảnh đầy mùi máu tanh, chiến tranh khiến biết bao con người hy sinh, gây ra đau khổ cho bao người và hai bà cháu trong bài thơ này cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi,… lúc này đây hình ảnh người bà hiện lên thật thiêng liêng thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả.
Phân tích khổ 4 của bài thơ Bếp lửa – Mẫu 3
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình… Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông.
Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà.
Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc ở đây sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương.
Sự kiên cường, vững vàng của người bà đã nuôi ông lớn, đã cho ông có một tuổi thơ thấm đậm tình thương. Qua khổ thơ càng khẳng định cho những người anh em trên mọi miền năm châu thấy được lòng kiên định, hiên ngang bất khuất của những người con đất Việt. Dù chiến tranh, dù tuổi tác cũng không làm ý chí con người bị lung lay.
Phân tích khổ 4 của bài thơ Bếp lửa – Mẫu 4
Nhà thơ Bằng Việt có một người bà, người mà suốt bao nhiêu tháng năm tuổi thơ đã cùng ông lớn lên, người đã thổi vào tâm hồn thân thiện, giúp ông hiểu thế nào là sự biết ơn, thán phục và là người đã tạo dựng lên cho ông có một tuổi thơ không thể nào quên trong những năm tháng chiến tranh. Chính vì vậy mà bài thơ Bếp lửa được ra đời, một bài thơ ông viết để dành riêng cho người bà kính yêu của mình.
Du học ở một đất nước xa xôi, nó khiến cho ông nhớ lại những kỷ niệm không thể xóa mờ của một tuổi thơ đầy gian khổ, khó nhọc, khoảng thời gian mà ông được nhận tình yêu thương bao bọc của người bà của mình. Khi cô đơn người ta thường hoài niệm, nó hiện về trong ông, về người cháu trong bài thơ.
Kỷ niệm cũ như những thước phim thời thơ ấu tràn về trong tâm tưởng của người cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.
Chiến tranh. Chỉ cần nhắc đến hai chữ ấy thôi, ai trong chúng ta cũng đều liên tưởng đến tính khốc liệt, tàn ác mà nó đem đến cho dân tộc. Nó đã gây ra bao đau thương, mất mát cho bao người, bao gia đình. Hai bà cháu trong bài thơ cũng không ngoại lệ: gia đình bị chia cắt, nhà cửa bị đốt “cháy tàn cháy rụi”. Những lúc như vậy, duy chỉ có tình làng xóm, tình cảm giữa những con người cùng khổ, những con người cùng thấm thía được nỗi đau thương của chiến tranh, là không bị hủy diệt. Họ đỡ đần nhau, đùm bọc nhau, cùng nhau vượt qua những ngày tháng gian lao, vất vả.
Và trong hoàn cảnh này, hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả. Nỗi khổ vì nhà của bị giặc tàn phá, bà âm thầm chịu đựng. Từ “lầm lũi” diễn đạt rất xúc động hình ảnh bà lặng lẽ sớm hôm, muốn chia sẻ, gánh vác cùng con cháu những lo toan vất vả, nhọc nhằn.
Bà vẫn chịu thương chịu khó, cặm cụi làm việc chỉ vì không muốn con mình ở chiến khu phải lo lắng cho gia đình:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. Nỗi khổ giặc phá làng xóm, nỗi vất vả, thiếu thốn, bà âm thầm chịu đựng. Chỉ mong sao con mình ở nơi tiền tuyến xa xôi luôn yên lòng để bảo vệ mảnh đất quê hương. Lời dặn dò giản dị ấy không chỉ giúp hiểu thêm về tấm lòng, về tình cảm thương con, thương cháu của người bà, mà còn gián tiếp đề cao những phẩm chất cao quý của bà: bình tĩnh, vững lòng, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để yên lòng người đi công tác.
Đức hy sinh, tần tảo; sự nhẫn nại, kiên trì trụ thật vững trong lòng bà đến cảm động! Cháu nhớ đến bà, nghĩ về bà và cảm nhận được rằng: bà đang hiện diện bên mình. Lời bà yêu thương, ấm lòng cứ như văng vẳng bên tai… Làm sao cháu có thể quên?
Phân tích khổ 4 của bài thơ Bếp lửa – Mẫu 5
Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tư, triết luận. Bài thơ “Bếp lửa” là bài thơ xuất sắc của ông, được sáng tác năm 1963, khi là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki-ép. Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương đất nước.
Có người nói người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người Thật vậy. Dù đi đâu, ở đâu, ai cũng nhớ về quê hương, nhớ về những kỉ niệm đã từng làm ấm lòng người, là điểm tựa tinh thần để vươn lên nghịch cảnh.
Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng của người cháu về người bà và bếp lửa quê hương. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà; cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.
Ở khổ thơ thứ 4, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu. Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường….
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ 4 bài thơ Bếp lửa 2 Dàn ý & 6 mẫu phân tích khổ thơ thứ 4 Bếp lửa tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.