Bạn đang xem bài viết Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ Văn mẫu lớp 12 Cánh diều tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ là một trong những chủ đề rất hay nằm trong chương trình Ngữ văn 12 sách Cánh diều tập 1.
Nghị luận vai trò của văn học đối với tuổi trẻ mang đến 3 bài văn mẫu cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi kiến thức để biết cách viết bài văn nghị luận. Đồng thời qua đó hiểu được vai trò của thơ văn đối với đời sống tâm hồn và sự phát triển phẩm chất của con người nói chung và đặc biệt đối với tuổi trẻ nói riêng.
Nghị luận Thơ văn với việc bồi đắp tâm hồn thế hệ trẻ
Hương nhụy trong mát và ngọt lành của tâm hồn con người là nghệ thuật. Văn học chính là một trong những hình thái nghệ thuật sinh trưởng từ tâm hồn con người, (là một trong những hương nhụy trong mát và thơm lành nhất của tâm hồn con người). Chắt lọc từ cuộc sống biết bao sự kiện, bao tâm trạng, bao thay đổi để có một cái gì của riêng tâm hồn mình, các nhà thơ, nhà văn đã gửi gắm những nỗi niềm rất riêng tư từ những cái rất chung vào các tác phẩm văn học. Và cũng chính từ tâm hồn con người bước ra, văn học đã trở lại xây đắp cho tâm hồn con người biết bao tình cảm, bao suy nghĩ, mơ ước.
Sinh ra và lớn lên trong miền Bắc xã hội chủ nghĩa, trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh, đối với tôi, văn học sản sinh từ hiện thực cuộc sống đó là cả một dòng sông chảy nặng phù sa, chảy qua tâm hồn tôi và bồi đắp cho tâm hồn tôi những tình cảm, mơ ước cao đẹp. Trên lớp phù sa màu mỡ, cây đời mãi mãi xanh tươi.
Ánh sáng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản rực rỡ như ánh mặt trời đã xua đi màn sương mờ mờ ảo ảo của giai cấp tư sản, xua đi nỗi buồn ai oán và bế tắc của văn học cũ, chỉ để lại trong chúng ta những kết tinh cao đẹp nhất của tâm hồn con người trong những áng văn thơ tiến bộ của dân tộc ta, của thế giới và nhất là nền văn học mới của chúng ta ngày nay – nền văn học của giai cấp vô sản.
Nền văn học tiến bộ ấy đã cho tôi một lí tưởng sống cao đẹp, lí tưởng của người cộng sản với nền móng vững vàng là tình yêu tha thiết. (Quê hương, đất nước và con người).
Tôi yêu quê hương, yêu đất nước thân yêu của chúng ta từ những câu ca dao rất xa xưa mà bà, mẹ tôi đã ru tôi. Tôi yêu quê hương từ những câu ca dao có hương bưởi dịu dàng, có bóng dáng con cò lặn lội bờ sông… Quê hương đất nước ta là xứ sở Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc, của nỏ thần An Dương Vương, của những anh hùng Đăm San, Xinh Nhã. Những câu chuyện cổ tích, những anh hùng trong trường ca ấy đã mở ra trước mắt tuổi thơ biết bao nhiêu điều kì diệu, sống động vô cùng:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Trong tâm hồn trẻ thơ, câu ca dao ấy đâu chỉ gợi lên hình ảnh một cô thôn nữ tát nước, mà đó là một cô tiên xinh đẹp dịu dàng đang múc lên những gầu ánh trăng vàng sóng sánh. Chao ôi con người quê ta sao đẹp vậy! Cho đến bây giờ, hai câu ca dao vẫn đọng mãi trong tâm hồn tôi hình ảnh tuyệt đẹp của con người và ánh trăng.
Quê hương với những kỉ niệm êm đềm của tuổi thơ đi vào bài thơ. Nhớ con sông quê hương của nhà thơ Tế Hanh, có sức rung động kỳ lạ trong tình yêu quê hương của tôi:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi sáng những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Con sông ấy không chỉ là con sông Trà Khúc, nó còn là con sông Thu Bồn, sông Thạch Hãn… nó còn là con sông quê hương của tuổi thơ.
“Nước gương trong soi sáng những hàng tre”, soi cả những mây trời. Nhìn xuống dòng sông ta thấy quê hương làng xóm của ta, ta thấy bè bạn ta, ta thấy cả ta nữa. Tác giả hỏi sông:
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Có lẽ hỏi để mà hỏi thế thôi, chứ quê hương ta nhân hậu nặng nghĩa nặng tình có bao giờ trôi đi những kỉ niệm của ta. Và ta cũng có bao giờ quên những kỉ niệm ấy đâu:
Lòng tôi như mưa nguồn gió biển vẫn trở về lưu luyến bên sông.
Lòng tôi bỗng dưng lên một nỗi niềm xúc động kì lạ. Quê hương ơi, tôi sẽ nguyện làm “mưa nguồn, gió biển” ấy. Một tình yêu lớn lên thêm nhờ một tình yêu.
Quê hương ta rất đẹp và rất anh hùng. Trong thơ văn, hình ảnh đất nước quê hương hiện lên rất bình dị nhưng lòng ta quá đỗi yêu thương, tự hào.
Trong mỗi tin chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tôi đều nghe âm vang bài Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi ngày xưa. Lịch sử dân tộc đã ghi những trang chiến thắng rực rỡ từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, từ những ngày Lê Lợi “núi Lam Sơn dấy nghĩa”. Phải chăng mỗi thắng lợi hôm nay đều mang khí phách hào hùng thuở trước:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh vài trận tan tác chim muông
Quá khứ của dân tộc ta là quá khứ anh hùng, là quá khứ vinh quang. Tôi yêu quê hương bởi quê hương là một bản hùng anh như vậy. Bài Cáo Bình Ngô là một tiếng kèn chiến thắng mạnh mẽ sôi nổi vượt qua bao thời gian đến với lòng ta và chúng ta một niềm tự hào về truyền thống dân tộc. Lòng yêu quê hương còn là tình yêu chủ nghĩa xã hội tươi đẹp với những con người mới đang phơi phới đi lên. Trong thơ văn của ta, hình ảnh con người mới ấy thật lớn lao, thật đáng yêu:
Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên
(Mùa thu mới – Tố Hữu)
Những con người ấy luôn hướng tới tương lai với một niềm tin mãnh liệt và một sức đi lên phơi phới. Hạ đạp bằng mọi khó khăn, tất cả không gì khuất phục được họ. “Hai cánh tay như hai cánh bay lên”, câu thơ có một cái gì thần thoại nhưng cũng rất thật, rất sinh động, lạc vào lòng hình ảnh người lao động mới, đẹp và hùng dũng như một thiên thần, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt của đảng ta. Những con người ấy là Chấm, Trọng, Quyện (Cái sân gạch – Đào Vũ) hăng say, cùng nhau đi lên trên con đường hợp tác xã hội chủ nghĩa; là Biền (Tầm nhìn xa – Nguyễn Khải) thẳng thắn, cương trực, dám đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm của chế độ cũ còn rơi rớt lại. Những con người ấy tiếp cho tôi một sức sống, một niềm vui lớn lao. Họ rất thấu hiểu đất nước mình còn nghèo nên mỗi người phải xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cả tấm lòng:
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sắt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ
Ta nâng niu vật nhỏ bé, gom góp chúng để dựng cơ đồ. “Nâng niu” câu thơ còn nhắc chúng ta rằng xây dựng xã hội chủ nghĩa không chỉ bằng bộ óc mà còn bằng cả trái tim. Tôi quí tôi yêu những trái tim của những con người mới ấy.
Còn xã hội chủ nghĩa là con người anh hùng, kiên cường bất khuất trước kẻ thù, quyết tiến công triệt để. Chị Út Tịch với ý sắt đá: “còn cái lai quần cũng đánh” từ cuộc đời đi vào tác phẩm Người Mẹ cầm súng của Nguyễn Thi đã trở thành một ánh sáng rực rỡ, cho tôi một niềm kiêu hãnh lớn lao. Người mẹ anh hùng, người vợ anh hùng, người chiến sĩ anh hùng trong chị út hòa làm một, hiện lên rất sinh động trên từng trang sách, hình ảnh ấy như một hướng sống trong mỗi lòng ta. Anh hùng Núp rất dân tộc mà cũng rất hiện đại trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc cũng là một hình ảnh tiêu biểu cho con người mới. Núp đánh giặc bằng truyền thuyết cây gươm ông Tú, bằng lòng căm thù giặc cao ngất – người ấy từ cuộc đời đi vào tác phẩm họ đi vào tâm hồn tôi, chói lọi như một cùng ánh sáng.
“Căm với vêu hai đợt sóng ào ào” (Xuân Diệu).
Bởi yêu thương nên rất căm thù, đó là truyền thống của dân tộc ta.
Tôi không quên được hai câu thơ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Câu thơ gợi lên nỗi đau nhức nhối, nỗi căm hờn vô tận. Đâu phải đồng quê ta chảy máu, mà đó là da thịt đồng bào ta đang nát tan, dây thép gai đâu chỉ đâm nát trời quê ta mà đang đâm nát cuộc đời biết bao người thân của ta. Máu trong người ta bỗng dưng sôi lên, câu thơ có sức đẩy kì lạ. Lòng căm thù cháy lên từ câu thơ nghe bỏng rát tâm hồn. Ta căm thù bởi vì ta yêu thương. Ta căm thù kẻ nào phá nát những cái gì mà ta yêu thương.
Văn học cho tôi tình yêu mãnh liệt và cũng cho tôi lòng căm thù sâu sắc:
… Từng viên đạn MỸ
Bắn miền Nam, nát thịt da xương tủy
Của mẹ cha, đồng chí, vợ con
(Có thể nào yên? – Tố Hữu)
Câu thơ như một nỗi day dứt căm hờn có thể nào yên. Tôi cảm thấy cái đau của “từng viên đạn Mỹ bắn vào miền Nam” trong da thịt mình, tôi cảm thấy tiếng gọi trả thù vang lên từ tận đáy lòng. Có biết bao bài thơ văn gợi cho tôi cảm giác ấy.
Từ tình yêu cháy bỏng, lòng căm thù cao độ mà văn học đã truyền cho, tâm hồn tôi bỗng sáng ngời một lí tưởng sống chân chính, lí tưởng cống hiến cho cuộc đời cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước của Tổ quốc ta. Và cao cả hơn, rộng hơn, tôi mơ ước được sống, chiến đấu và hi sinh cho sự nghiệp cao quý trên đời: “Sự nghiệp giải phóng loài người” như Pavel Corsaghin đã nghĩ. Văn học đã chắp cánh cho ước mơ tôi bay cao và cũng cho tôi một đạo làm người chân chính.
Bác Hồ, một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc ta đã viết nên một triết lí sống:
Gạo đem vào giã, bao đau đớn
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
(Nghe tiếng giã gạo)
Cuộc sống là sự đi lên, vấp ngã cũng để đi lên. Tôi hiểu rằng để thực hiện được lí tưởng sống cao đẹp của mình, cần phải rèn luyện trong gian khổ khó khăn, như hạt gạo kia “đem vào giã, bao đau đớn ”
Một con người chân chính không thể cúi đầu khuất phục trước bất cứ khó khăn nào mà phải đi lên bằng trái tim yêu thương và nhiệt tình. Cuộc sống của chúng ta cần những trái tim của Đan Cô rực lửa, Lôi Cô (trong truyện ngắn của M. Goóc-ki) đã giúp tôi hiểu rằng hãy hiến dâng trọn đời cho lí tưởng cao quý mà mình đã chọn, có một hướng đi đúng đắn, nhất định ta sẽ tới đích, cho dù vượt muôn ngàn khó khăn gian khổ, bởi vì: “Không thể lấy máu mình dậm chân lí” (M. Goóc-ki). Đó là niềm tin mãnh liệt vào lí tưởng của mình.
Văn học tiến bộ đã cho tôi lí tưởng cộng sản cao đẹp và cũng cho tôi niềm tin tưởng tuyệt đối vào lí tưởng ấy. Bình minh hiện ra trước mắt Bác Hồ trong một lần “Giải đi sớm ” gian nan, vất vả thật tươi sáng, tuyệt đẹp:
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn quét sạch không
Đó không chỉ là một quy luật của vũ trụ mà là sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Lòng tôi bừng lên niềm tin vào lí tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Chiến đấu cho lí tưởng là một quá trình rèn luyện mình, rèn luyện ý chí kiên cường bất khuất trước kẻ thù, bên cạnh những người thanh niên cận vệ, hình ảnh Nguyễn Văn Trỗi đã rực lên trong tâm hồn tôi một niềm kiêu hãnh một sự bình thản hiên ngang trước kẻ thù:
Anh muốn thiêu, bằng mắt, lũ đê hèn
Với cái chết, anh muốn nhìn giáp mặt
Như ngọn lửa không bao giờ dập tắt!
(Hãy nhớ lấy lời tôi – Tố Hữu)
Đôi mắt anh Trỗi cháy lên ngọn lửa căm thù, và bọn giặc bất lực “rùn lên, xông trói chặt anh hơn”, nhưng chúng làm sao có thể trói được ý chí bất khuất của anh.
Văn học đã xây đắp tâm hồn tôi, đã xây đắp cho tôi lí tưởng sống và cách sống chân chính. Đó là khả năng kì diệu của văn học, sở dĩ văn học có tác dụng lớn lao như vậy bởi vì các nhà văn, nhà thơ của chúng ta đã có ý thức rất rõ về chức năng giáo dục của văn học. Bằng nghệ thuật ngôn ngữ, văn học thường đi sâu vào lòng người hơn bất cứ hình thái nghệ thuật nào khác. Văn học phản ánh hiện thực bằng ngôn ngữ được chọn lọc, sắp xếp, được cách điệu hóa với âm nhạc điệu của mình nên có tác động rất sâu xa trong lòng người đọc, người đọc thường dễ chấp nhận những mảng hiện thực trong văn học, những chân lí trong văn học. Mà văn học mới – văn học của giai cấp vô sản – thì phản ánh trung thực và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới, không thể tô hồng, không thể bôi đen hiện thực, chính vì vậy văn học mới đã cho tôi những tình cầm lành mạnh, những suy nghĩ lớn lao.
Cảm ơn những nhà thơ, nhà văn, những con ong cần mẫn hút hương vị trăm hoa để sản sinh ra mật thơm và ngọt cho đời. Những áng thơ văn tuyệt đẹp của dân tộc ta và của thế giới đã cho tôi lí tưởng sống cao quí, cho tôi đạo làm người chân chính, chắp cánh cho ước mơ tôi bay cao.
Mãi mãi văn học sẽ là một dòng sông đỏ nặng phù sa bồi đắp cho tâm hồn con người những tư tưởng tình cảm đẹp đẽ, dòng sông ấy bất diệt trong thời gian và trong lòng tôi.
Bàn luận về vai trò của tác phẩm văn học đối với cá nhân em
Tác phẩm văn học là kết tinh của tâm hồn người sáng tác. Mỗi tác phẩm văn học là tiếng nói của tác giả trong cuộc đời. Bởi vậy, mỗi tác phẩm đều để lại trong em những bài học và giá trị sâu sắc. Trong đó, có truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là bức tranh hiện thực đầy màu sắc, ẩn sau đó chứa đựng câu chuyện về số phận cuộc đời con người.
Tác phẩm nổi bật lên với nhiều giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đầu tiên phải kể đến nghệ thuật xây dựng tình huống truyện tài tình. Tác giả đã xây dựng tình huống truyện chứa đầy nghịch lý, éo le. Trong nền nghịch lý ấy, nhân vật bộc lộ những đặc điểm tính cách, góc nhìn đời và tư tưởng của mình.
Bên cạnh đó, nghệ thuật xây dựng nhân vật sinh động, khéo léo. Nhân vật đã được khắc họa vô cùng chân thực, sống động thông qua hành động, thông qua những hình ảnh, ngôn ngữ vô cùng giản dị mà lại giàu ý vị, triết lý. Hình ảnh người đàn bà làng chài có làm da ngăm rám nắng, thân hình chắc khoẻ, hình ảnh người chồng mạnh mẽ, hung tợn. Tất cả những chi tiết đó đều phù hợp với những con người ngày đêm lam lũ trên mặt biển.
Đi sâu hơn vào các chi tiết, ta nhận ra nổi bật lên tất cả là bút pháp tả thực. Một điều khiến em ám ảnh ghê gớm nhất có lẽ là những dòng văn đầy bạo lực : “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, …, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Những câu văn miêu tả chân thực vô cùng và tỉ mỉ đến từng chi tiết, gợi lên một cảm giác rất đời, rất thực. Đó cũng chính là cuộc sống thật đang diễn ra ở một gia đình nào đó trên đất nước ta thời bấy giờ. Cuộc sống sau chiến tranh vẫn chất chứa rất nhiều hậu quả, không chỉ về vật chất mà còn là những tổn thương tâm lý không thể chữa lành.
Qua khung cảnh bạo lực ấy, trong cái đen tối ấy lại sáng lên chất nghệ thuật tài ba của tác giả. Đoạn văn giàu chất tạo hình, tựa như một thước phim cận cảnh cuộc đời đầy cay xót, trái ngang của người phụ nữ làng chài.
Tác phẩm để lại rất nhiều ấn tượng trong em, không chỉ là về những đặc sắc nghệ thuật mà còn về giá trị hiện thực mà nó đem lại. Khung cảnh ấn tượng đậm sâu nhất cho em có lẽ là cảnh bạo lực gia đình, người chồng đánh vợ như súc vật. Nếu như trước đó nghệ sĩ Phùng đã bắt gặp một “cảnh đắt trời cho”, đẹp đến mê hồn, thậm chí được ví như “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, làm rung động tâm hồn người nghệ sĩ thì giờ đây, bức tranh ấy đã nhuốm màu sắc đớn đau, cơ cực. Chính sự đổi thay ngang trái ấy khiến em ấn tượng mãi không thôi về sự thật – sự thật đằng sau bề ngoài đẹp đẽ, mê hồn có thể xù xì, gai góc đến như vậy.
Tác phẩm làm em cảm thấy ấn tượng thêm một lần nữa chính là ở quyết định của người đàn bà làng chài. Hứng chịu chiếc thắt lưng quật tới tấp, “người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Phản ứng của người đàn bà ở đây thật kì lạ đến thảm thương. Thông thường, lúc bị áp bức thì vùng lên, không được thì trốn chạy, van xin. Liệu có ai mà sống được với những trận đòn như cơm bữa “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Tuy nhiên, người đàn bà trong truyện của Nguyễn Minh Châu chính là như vậy. Quả là một nghịch lí trong cuộc sống đời thường. Tủi nhục, đớn đau bởi bạo hành, đánh đập, nhưng cô cũng không chịu buông bỏ, dứt nghĩa vợ chồng. Người đàn bà ấy có những lí lẽ cho riêng mình, tưởng chừng như đơn giản nhưng ở cô mang cái nhìn thấu suốt một cuộc đời, mang trải nghiệm mà Đẩu và Phùng chưa bao giờ thấy được: “các chú đâu có thể hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhục…”, “ chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”
Tác phẩm đã đưa giúp cho em có cái nhìn vô cùng thực tế về bản thân và cuộc sống. Mọi chuyện không chỉ đơn giản như vẻ ngoài của nó, trước khi suy xét cần phải thấu hiểu tường tận, nhìn xuyên qua những cái bề ngoài đẹp đẽ để nhận ra được bản chất của sự vật, hiện tượng bên trong cái vỏ ngoài ấy. Nhìn nhận về con người cũng vậy. Con người vốn là một thực thể bề bộn và phức tạp, không đơn chiều, nhất phiến. Vì vậy, không nên nhìn con người hay số phận con người một cách đơn giản xuôi chiều mà cần nhìn nhận một cách đa chiều, đa diện mới hiểu hết bản chất đích thực của con người.
Tác giả đã đem đến một truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị cuộc sống lớn lao, thông qua phát hiện những nghịch lí của đời thường.
Đọc truyện, em cảm thấy nhói đau cho số phận con người trong cuộc sống mưu sinh vất vả, nhọc nhằn. Câu chuyện đã giúp em giác ngộ nhiều bài học sâu sắc từ những nghịch lí cuộc đời. Bản thân em nhận ra rằng những kiến thức sách vở chỉ là kẻ ngây thơ trước thực tế muôn màu, muôn sắc, phức tạp.
Tác phẩm đã khơi dậy lòng thương cảm, sự thấu hiểu và sẻ chia trước số phận vất vả, khổ cực của kiếp người nghèo khổ, bế tắc bị cầm tù bằng nỗi đau về thể xác và tinh thần. Thông qua tác phẩm, em phát hiện ra những vẻ đẹp đời thường hết sức nhân văn trong mỗi con người và từ đó, thêm trân trọng con người, trân trọng những phẩm chất đáng quý và cao cả ấy
Mỗi tác phẩm văn học đều mang một thứ ánh sáng nhiệm màu, ánh sáng ấy chiếu rọi vào trong tâm hồn ta, nuôi dưỡng tâm hồn. Ánh sáng kì diệu ấy, chiếu tỏa đến mọi ngóc ngách cuộc đời và tạo nên những cảm xúc tốt đẹp, làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và ý nghĩa hơn.
Nghị luận về một tác phẩm đã làm thay đổi cuộc sống của bản thân
Tôi đã từng nghe nói ở đâu rằng “sách là thế giới”. Quả thật đúng như vậy, sách là thế giới thu nhỏ, cho phép ta trải nghiệm, cảm nhận rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua những câu chuyện đầy xúc động mỗi người lại tự rút ra những bài học cho riêng mình. Đối với tôi cuốn sách gối đầu giường, cuốn sách tôi yêu thích nhất chính là “Cây chuối non đi giày xanh” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Câu chuyện được bắt đầu thật tự nhiên hợp lý. Nhân vật Đăng cũng là nhân vật chính trong tác phẩm nhận được lời đề nghị của người bạn: “Mày viết cho tao một bài về những kỉ niệm lúc mày còn ở đây… Mày viết thật thơ mộng vào. Như viết tiểu thuyết càng tốt”. Nhận lời đề nghị của người bạn, Đăng đã bắt tay vào viết, đó cũng là lúc biết bao kỉ niệm xưa cũ, trong trẻo, hồn nhiên của tuổi thơ ùa về: tình bạn, tình yêu, tình cảm thầy trò. Những kỉ niệm ấy thật đẹp đẽ, mơ mộng và đáng trân trọng biết bao. Trong cuốn truyện điều tôi ấn tượng nhất là hành trình tuổi thơ cũng là hành trình phát triển từ tình bạn thành tình yêu của Đăng và nhỏ Thắm. Những đứa trẻ con ngây thơ, hồn nhiên bên nhau trong suốt thuở thiếu thời: bị chết đuối hụt, chúng cùng đi học bơi, bảo vệ nhau trước những kẻ xấu, cùng nhau đi học, cùng nhau cười đùa,… và chúng ngượng ngùng, xấu hổ khi nghe thấy những lời chòng ghẹo, trêu đùa từ người khác. Nhưng trên hết đó là sự quan tâm, giúp đỡ nhau chân thành, tha thiết. Tôi đã vô cùng ngỡ ngàng, ngạc nhiên với hành động hồn nhiên mà cũng đầy chân thành của chú tiểu Khôi, Phan… khi Thắm buộc phải lấy người mà bố mẹ mai mối. Đó còn là sự yêu thương vô bờ của mẹ Thắm dành cho đứa con của mình. Chẳng phải ai khác mà chính là bà đã dán tờ giấy ấy trước nhà với nội dung phản đối hôn nhân lạc hậu. Bà mẹ ấy thật bao dung và vĩ đại biết bao. Bà biết rằng nếu bị phát hiện chắc chắn nhỏ Thắm sẽ bị ăn đòn, bởi vậy bà tình nguyện làm việc đó để đỡ đòn roi thay cho con.
Tác phẩm còn thể hiện tình người, tình làng nghĩa xóm đầm ấm, thân thiết. Ông hớt tóc chẳng khác nào ông Ba Bị mà bố mẹ vẫn dọa mỗi lần tôi hư. Ông hay chòng ghẹo những đứa bé trong làng, miệng ông nhai trầu đỏ lòm làm tất cả những đứa trẻ trong làng phải khiếp sợ. Nhưng khi thấy Đăng và Thắm bị ngã nước, sắp chết đuối ông đã vội vàng xuống cứu. Ẩn sau con người gàn dở ấy là cả một tấm lòng nhân hậu và lương thiện biết bao. Và còn rất nhiều câu chuyện nhỏ nhặt, vô cùng đời thường trong truyện khiến người ta đọc một lần rồi chẳng thể nào quên được. Có lẽ khi đọc cuốn sách này những đứa trẻ nông thôn sẽ như được sống lại những kí ức ngây thơ, hồn nhiên của mình. Chỉ là những câu chuyện vặt, câu chuyện nhỏ nhưng đầy chất nhân văn và thấm đẫm tình người. Truyện được viết bằng giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, thấm đẫm chất trữ tình. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, đậm chất Nam Bộ khiến người đọc cảm nhận được thân thương, gần gũi. Không chỉ vậy, Nguyễn Nhật Ánh còn tạo dựng tình huống đặc sắc, những chi tiết bất ngờ làm câu chuyện trở nên hấp dẫn, lí thú hơn.
Gấp cuốn sách lại, những gì đọng lại trong lòng mỗi người không chỉ là giọng văn đằm thắm, chân thành mà còn bởi tình người sâu sắc, cảm động, bởi những suy nghĩ hồn nhiên, ngây thơ nhưng hết sức chân thành. Qua tác phẩm, không chỉ tôi mà rất nhiều bạn khác sẽ rút ra cho mình bài học riêng cho mình: bài học về tình bạn, tình cảm hàng xóm, về tình cảm gia đình,…
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Viết bài nghị luận về vai trò của văn học đối với tuổi trẻ Văn mẫu lớp 12 Cánh diều tại Thcslytutrongst.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.